Ngày 27 tháng 1 năm 1973, hiệp định Paris được ký kết ( có hiệu lực ngưng bắn trên toàn lãnh thổ Việt Nam bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 28/01/1973 ). Chúng tôi, vui mừng đến chảy nước mắt. Sau bao năm chiến tranh rồi ra cũng có ngày kết thúc, ngày quê hương không còn đạn bom, không còn những xác chết của anh em bên này hay bên kia chiến tuyến. Ngày anh em chúng tôi nhìn nhau thân thiện, không còn hận thù sau mấy mươi năm loạn lạc. Nhưng rồi…tất cả chúng tôi đều hiểu rằng đó chỉ là giấc mơ- giấc mơ cháy bỏng của một dân tộc đã không bao giờ trở thành hiện thực. Chiến tranh lại tiếp tục, những mối tình nghiệt ngã thời đạn bom lại không chấm dứt theo cuộc chiến triền miên.
Tôi là một quân nhân , một văn nghệ sĩ , với tâm hồn ướt át tình cảm nên không khỏi đa mang trong cuộc đời mình những mối tình thời khói lửa điêu linh. Những mối tình đi qua, nhưng có một mối tình không bao giờ đi qua trong cuộc đời tôi . Đó là mối tình tôi trân trọng thương yêu, đau khổ khi chia cắt - cũng là mối tình đẹp, nhiều hệ lụy nhất sau cuộc chiến tranh Việt Nam . Đó là tình yêu giữa tôi và Thu Hồng .
Thu Hồng là người con gái duy nhất mà tôi tặng 60 bài thơ do chính tôi chép tay, kết chỉ màu đỏ thành tập. Thu Hồng ví tôi như Phượng Hoàng trong lồng sắt, cái lồng sắt vĩ đại trên quê hương đầy bom đạn và xác chết đã nhốt Phượng Hoàng của em . Và tôi gọi Thu Hồng là hồng nhan tri kỷ một đời thương yêu của tôi .
Ngày xưa , Thu Hồng và tôi lần đầu tiên gặp nhau , lúc Thành bị bệnh em vào xin phép đơn vị cho Thành nghỉ . Khi ấy tôi đang ngồi bên thành cửa sổ phòng Chiến Tranh Chính Trị, mặc quân phục rằn ri TQLC , trên túi áo trận mang chữ Press với bảng tên Linh Phương .Thấy tôi rất xấc láo , ngạo nghễ , giọng điệu bất cần đời , Thu Hồng biết rằng chính tôi là người em muốn tìm gặp, và tôi cũng biết em chính là người đi vào trái tim ngạo mạn của tôi. Em cũng nổi máu kiêu kỳ của con gái Bắc nên chủ động nói chuyện cùng tôi và Thiếu Tá Danh . Em trêu chọc tôi đủ thứ, tôi chỉ biết cười cười . Thực ra, Thu Hồng biết tôi một phần qua Trần Công Thành ( em trai Thu Hồng ) thường đem những bài thơ tôi viết về nhà cho em.
Tôi và Thành chơi rất thân, có khi hai anh em nằm chung trên một chiếc giường sắt cá nhân sau phòng Chiến Tranh Chính Trị .Thành thường hay lấy thơ của tôi phổ thành ca khúc . Tôi nhớ , lúc đó Thành đã phổ thơ tôi thành một tập ca khúc mang chủ đề “ Một giờ cho Việt Nam “ gồm có những bài thơ nói về chiến tranh Việt Nam, chủ yếu là thời điểm 1972 .
“ Con qua sông Thạch Hãn
Lệ rưng rưng hai hàng
Con qua sông Thạch Hãn
Cờ chiến thắng cờ tang … “
Hay :
…” Con bỏ vùng Quảng Trị
Chạy về ngõ Trường Sơn
Chào anh em miền Bắc
Về giải phóng miền Nam…”
Hoặc :
“ Con xuôi về Komtum đất đỏ
Đạn lên nòng chờ bóng chiến xa
Mẹ ngàn năm sầu đưa mắt ngó
Bạn bè con mở hội trăm hoa
Con xuôi về Komtum đất đỏ
Thăm đường xưa mìn bẫy hầm chông
Thăm vợ hiền bồng con đứng đó
Suốt một đời ôm trọn nhớ mong …
Rồi :
“… Mời anh em về đây đốt lửa
Dân hai miền tập họp dựng cờ …”
Lệ rưng rưng hai hàng
Con qua sông Thạch Hãn
Cờ chiến thắng cờ tang … “
Hay :
…” Con bỏ vùng Quảng Trị
Chạy về ngõ Trường Sơn
Chào anh em miền Bắc
Về giải phóng miền Nam…”
Hoặc :
“ Con xuôi về Komtum đất đỏ
Đạn lên nòng chờ bóng chiến xa
Mẹ ngàn năm sầu đưa mắt ngó
Bạn bè con mở hội trăm hoa
Con xuôi về Komtum đất đỏ
Thăm đường xưa mìn bẫy hầm chông
Thăm vợ hiền bồng con đứng đó
Suốt một đời ôm trọn nhớ mong …
Rồi :
“… Mời anh em về đây đốt lửa
Dân hai miền tập họp dựng cờ …”
Tôi nghĩ những bài thơ của tôi lúc bấy giờ đầy tính nhân văn và nhân bản, không hận thù, không sắt máu mà đầy tình người .Cái tình người mà tôi đánh đổi bằng những tháng năm lưu đày khi tuổi trẻ ở thế hệ chúng tôi lên đường cầm súng ra mặt trận .
Hôm Thành đem tập thơ viết tay, được kết bằng những sợi chỉ màu đỏ về choThu Hồng, Thành nói :
“ - Ông Phương biểu tôi đưa cho bà cái này, nhưng trong đó có mấy bài thơ cho bà thôi. Còn thì ông đổi tên nhân vật lại , đừng có mơ mộng quá là chết đó nghe” . Đó là 60 bài thơ đầu tiên em nhận được, trong ấy có bài “ Tình khúc cho Trần Thị Thu Hồng “
Xưa kia ta ở dưới trần
Thấy em tim nở đầy bông mất rồi
Bất ngờ ôi thật bất ngờ
Tiểu thư về nẻo mịt mờ khói sương
Xin người một chút hoài hương
Mà trong buổi sáng ta hôn môi nồng
Này em những giọt mưa hồng
Nghe như mùi đất còn thơm mùi tình
Cho em bày tỏ ngọn ngành
Thương yêu từ kiếp nào đành quên sao ?
Em linh cảm bài thơ đó tôi viết cho người khác, nhưng đề tên em. Nhưng đâu có hề gì , vì những giòng chữ đề tên Trần Thị Thu Hồng là chữ của Linh Phương ; mà thơ Linh Phương cũng đã thú nhận :
“… Này em chiên ngoan đạo
Mặt tươi tỉnh như hoa
Bởi em vốn thật thà
Còn ta ưa ba xạo
Bởi em vốn khờ khạo
Ta ma giáo đủ điều
Coi Phật Chúa nhẹ hều
Nên ta vô số tội … “
Em chấp nhận cái ba xạo của thi sĩ, và em muốn nâng niu những dòng thơ nào mà em cảm nhận được Linh Phương dành riêng cho em … “. Trong cuộc đời này chỉ có em là hiểu tôi nhất, không ai hiểu tôi bằng em”. Đó mới là hồng nhan tri kỷ thực sự trong cuộc đời Linh Phương .
Em nói những bài thơ lúc trai trẻ của tôi là những bài thơ hay nhất viết về em , cho em . Những bài thơ làm em “ chết “ cả cuộc đời .
“… Sân cát lạnh mồ hôi em ướt .
Mồ hôi thơm ủ lại mùi hương …”
Những bài thơ như lời thề nguyện cho một mối tình, như một lời dự cảm mà tôi và em phải chia cắt sau này .
“… Ta sẽ chết và ta thề nguyện
Cùng núi non, chim chóc, mặt trời
Cùng thần linh Đông, Tây, Nam, Bắc
Hồn thiêng ta phảng phất bên người…”
Tôi nhớ trong những lá thư gửi cho em , tôi mơ ước sẽ dành dụm tiền để có một ngày trở về cưới em, ngày tôi với em thành vợ , thành chồng sống bên nhau như chim liền cánh , cây liền cành .Tôi trân quý tình yêu đầu đời của em đối với tôi, một người con gái đã thương yêu tôi. Tưởng đâu không bao giờ có ngày ly tan, tưởng đâu những gì tôi và em mơ ước sẽ trở thành hiện thực trong một vài năm .
. Trong một đoạn nhật ký em viết ngày 26 tháng 5 năm 1974 với những dòng ngắn ngủi khi em không nhận được một lá thư nào của tôi gửi em :
Thưa ông !
Tôi thú thật rằng tôi đã chờ đợi thư ông, tôi ghiền đọc thư ông ghê lắm, ông giận tôi chăng ? Hay có thể ông đã rời xa nơi khác mà vĩnh viễn không bao giờ ta có thể gặp lại.
Hãy viết thư cho tôi ông nhé . Thu Hồng .
Lúc đó, cả hai chúng tôi đều không hiểu tại sao lại bặt tin nhau . Em hờn trách tôi quên em , không gửi thư cho em ; còn tôi lại hiểu lầm ngược lại .Cứ thế mà chúng tôi bặt vô âm tín – cứ thế mà người chân trời , người góc biển không hay .
Thời gian gặp nhau của tôi và em quá ngắn ngủi, tôi phải tiếp tục ra đi cho cuộc hành trình thăm thẳm vô định của mình . Tôi là người bị lưu đày trên chính quê hương bi thảm với bản án mà tuổi trẻ chúng tôi thời ấy phải chen vai gánh chịu . Lần cuối, tôi đã viết trang thơ tình nhỏ xíu trên tờ giấy tập vở học sinh ,với dòng chữ nhỏ xíu cho em :
“… Xe đày ải chở ta
Đến chỗ hẹn với người
Chỗ hẹn mà không hẹn
Ta thoáng chút ngậm ngùi …”.
Chuyến ra đi đó dài đăng đẳng mấy chục năm .Thời gian như mây bay, như gió thổi , như nước chảy qua cầu – nhưng tình yêu chúng tôi mãi mãi vẫn còn ở lại . Dù những ngày gặp nhau của tôi và em ngắn ngủi , nhưng những ngày gặp nhau ngắn ngủi ấy miên viễn trong cuộc đời chúng tôi. Chúng tôi đã đi tới tận cùng của sự chia ly ,thương nhớ một mối tình thanh xuân , qua bao thăng trầm của cuộc sống , bao bể dâu của cuộc đời . Nhưng cuối cùng có một điều rất thực trong trái tim mỗi người – trong trái tim của tôi và em như chưa hề có cuộc chia ly . Vâng ! Không hề có cuộc chia ly đau đớn đến cuối đời người như bao cuộc chia ly khác trong cuộc chiến Việt Nam.
( còn nữa )
No comments:
Post a Comment