Thursday, December 15, 2011

Saturday, September 10, 2011

Hồi Ký Linh Phương - Kỳ 47 -


- Kỳ 47 -




Sau đợt tổng tấn công đợt 2 của người anh em bên kia chiến tuyến, tiểu đoàn 6 TQLC ( Thần Ưng Cảm Tử ) chúng tôi đóng quân dài theo cầu Bình Lợi ( Sài Gòn ).Tiểu đoàn Thần Ưng Cảm Tử, nhưng anh em các tiểu đoàn khác trong binh chủng TQLC thường gọi đùa “ Thần Ưng Cảm Tử” thành “ Thần Ưng thủ cẳng “( sau này bỏ chữ “ Cảm Tử “ chỉ còn “ Thần Ưng “ ).Trong trung đội của Thiếu úy Đáng có hạ sĩ nhất Thạch Phương người Miên , cao lớn dềnh dàng sử dụng đại liên M.60 thiện nghệ.Hắn hay xin thuốc lá, biết tôi thích hút Pallmall hắn nói : Thẫm quyền cho em xin một điếu “ Phải anh là lính mời anh lên lầu “. ( Lính ưa đặt tên mẫu tự đầu của một từ ghép lại cho vui, như thuốc lá Capstan thì gọi “ Cho anh phát súng tim anh nát” hoặc “Cởi áo phong sương tặng áo nàng” hay “ Cho anh phủi sạch tình ân nghĩa “ …còn nhiều nữa “. Thuốc Salem“ Sao anh làm em mệt “.. ) Tay này là tay chọc trời khuấy nước, bên cánh tay trái xăm chữ “ T.Q.L.C –SC ,chữ “ SC “ ( tôi xin viết tắt, thực ra hai chữ này viết nguyên). Cánh tay mặt, Thạch Phương xăm bốn chữ “ Hận kẻ bạc tình “.Mỗi lần uống rượu vào, Thạch Phương xách cây đại liên M.60 chỉa lên trời bắn một tràng, dù biết rằng sau đó bị kỷ luật.
Thạch Phương làm tôi nhớ mấy câu thơ Đường :” Bồ đào mỹ tửu dạng quang bôi.Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu.Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” ( Chiếc ly dạ quang tinh xảo được đổ đầy rượu nho ngon tuyệt.Vừa muốn say sưa một phen, thì đột nhiên tiếng đàn tì bà tưng bừng vang từ trên lưng ngựa xuống như thôi thúc tướng sĩ cùng can ly..Dù có say nằm lăn trên sa trường, mong các vị đừng chê cười,Trước giờ người đi chinh chiến mấy ai còn sống trở về).

Tiểu đoàn chúng tôi lại di chuyển về ven đô, đóng quân dọc theo cầu Sài Gòn nối dài ra xa lộ Biên Hòa ( nay là xa lộ Hà Nội ).Đêm tôi thường với Trung sĩ nhất Nhiều trung đội phó cùng hai người lính lên ca nô chạy dọc theo bờ sông.Thời gian ở đây thật là yên tĩnh, mặt trận Sài Gòn thật yên tĩnh sau những ngày chiến tranh vào thành phố.Hai trận tổng tấn công đã cho người dân Sài Gòn có cái nhìn khác hơn về những người lính ngày đêm kề bên cái chết.Người dân Sài Gòn hiểu thế nào là sự tàn bạo và nhẫn tâm của chiến tranh.Đêm đi tuần tra ven hai bờ sông, nghe tiếng Chế Linh hát trong máy Cassette ở một ngôi nhà nào đó vang lên buồn đứt ruột “…Thương , thương em nhiều lắm nhưng tình ta cách đôi bờ khi núi sông còn điêu linh…”, nhớ đến Thương Mặc Uyên, nhớ đến những ngày ở tòa soạn tuần san Tinh Hoa Nữ Sinh.Tình ta cách đôi bờ khi núi sông còn điêu linh là vậy. Qua cầu Sài Gòn, tôi cảm tác mấy câu thơ :



Qua cầu cố vẫy bàn tay
Nhớ nhau chiều ấy áo bay rộn ràng
Như em phơi nắng lụa vàng
Trăm năm một thuở thiếp chàng chung vui
Rượu thương xin cạn tình người
Rượu yêu xin nhắp chén ngùi mắt trông

( Thơ Tình Thời Chiến )



Rất gần, rất gần nhưng không cách chi rời khỏi đơn vị đi tìm cô bé thi sĩ nhỏ nhắn ngày nào.Chiến tranh là vậy, đôi khi rất gần nhau mà cứ xa nhau ngàn trùng.Nếu ở thời điểm ấy mà có điện thoại di động ,máy vi tính nối mạng “ chat chít “, gửi thư điện tử như ngày nay thì tình yêu của tôi sẽ không bao giờ bị “ ngăn sông cấm chợ “ . Không bao giờ biền biệt mấy mươi năm để ngày nay trở thành người xưa, người xưa nằm dưới mộ sâu, người xưa còn sống một đời vĩnh viễn cắt chia.Bao nhiêu mối tình phải tức tưởi phân ly thời loạn lạc vẫn còn cho đến ngày sau.



Mùa thu chín nụ hoa vàng
Anh ngang qua cổng em ngần ngại trông
Cuối đường hút mắt ngó mong
Muốn đem những sợ tơ hồng này cho
Se duyên thắm buổi hẹn hò
Mai ra mặt trận dặn dò em thôi
( Sợi Tơ Hồng Se Duyên )

Rồi xuôi quân về Chương Thiện, một tỉnh lỵ miền tây nam bộ. Đồng ruộng mênh mông, kinh rạch - sông ngòi chằng chịt. Tôi chứng kiến những cái chết , những người mang thương tích tật nguyền , không dành riêng cho bên này hay bên kia. Cho đến bây giờ, hơn 40 năm tôi vẫn không quên ánh mắt cô bé giao liên tên Nguyệt xinh đẹp như con gái Sài Gòn.Ánh mắt biết ơn của người con gái bên kia chiến tuyến khi tôi lặng lẽ thả cô trở về với bưng biền. Dù có đánh nhau ở trận mạc, dù không chung lý tưởng- nhưng chúng tôi là người Việt Nam.Tuổi trẻ hai miền chúng tôi cầm súng lên đường cũng vì hoàn cảnh lịch sử.Chém giết nhau ở chiến trường, hết đánh rồi chúng tôi là anh em. Người Việt Nam nhân bản, nhân văn là thế ấy .Vì vậy, trong bài thơ “ Hành Quân “mới có những câu mà cách đây không lâu trên một website nước ngoài đề cập đến đã viết tôi sém ra Tòa án binh vì chuyện này.




“ …Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng
Xinh đẹp như con gái Sài Gòn
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân

Mai mốt này đây nơi trận tuyến
Gặp ta em bắn chớ ngại ngùng
Cuộc chiến đâu dành cho nhân nghĩa
Đời nào đạo lý với bao dung “.



Thực ra, tôi không muốn kể lại những chuyện này, không khéo người ta cho rằng tôi kể công với người chiến thắng. Nhưng đã là Hồi Ký thì tôi phải trung thực về những chặng đường tôi trải qua trong cuộc đời làm thơ của mình.Cuộc đời tuổi trẻ mà không có tuổi trẻ của thế hệ hai miền Nam-Bắc cam chịu.Tuổi trẻ miền Bắc hay miền Nam đều như nhau, lớn lên đi học rồi cầm súng ra chiến trường. Tuổi trẻ hai miền đều nhân danh một cái gì đó biết mà không sao nói được.Đau đớn thay, vinh hạnh thay chúng tôi sinh ra, lớn lên trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Năm 1975 , tôi đi học tập cải tạo từ ngày 1 tháng 5 cho đến tháng 8 năm 1978 . Và 8 năm sau, lần đầu tiên tôi trở lại Sài Gòn, tôi gặp Ngọc Đường người bạn văn nghệ trước 1975, bây giờ trở thành một cán bộ chức sắc ngành Văn hóa thông tin. Ngồi uống cà phê , Ngọc Đường nói : Tao nhớ mày nhất là bài thơ “ Nuôi tóc dài trước ngày lấy chồng “. Tao thuộc lòng bài thơ này, mày là tác giả nhưng chưa chắc gì thuộc hết bài thơ như tao. Ngọc Đường đã đọc bài thơ hơi dài được in trong tập thơ “ Kỷ Vật Cho Em “ bản in năm 1971.do Văn Nghệ Động Đất ấn hành.



1*
Em nuôi sợi tóc thêm dài
Để anh thương tóc thương hoài ngàn năm
Dù người còn mãi xa xăm
Dù em còn mãi ăn năn một đời
Em nuôi sợi tóc đầu đời
Buộc chân người ngủ bụi bờ ngược xuôi
2*
Đã yêu đã biết ngọt bùi
Đã xa đã biết ngậm ngùi nhớ nhau
Từ bây giờ đến mai sau
Xin anh giữ trọn tình đầu tiên yêu
Rồi mùa thu lá trăm chiều
Lá rơi rụng lá cho nhiều xót xa
3*
Em nuôi sợi tóc ngọc ngà
Tóc se sợi tóc ngọc ngà tóc mây
Người buồn ngậm đắng-ngậm cay
Em buồn chải tóc sầu bay đầy hồn
Nợ duyên-duyên nợ chưa tròn
Về nuôi sợi tóc em còn sợi thương
4*
Mai anh cầm súng lên đường
Mai em sách vở về trường học xưa
Này văn khoa buổi nắng trưa
Em đem phơi tóc cũng vừa tóc khô
Nơi anh đồn trú mịt mờ
Tóc phơi em gửi tặng người chiến binh
5*
Và như hạt sỏi vô tình
Và như hạt sỏi vô tình cách ngăn
Em xin quỳ xuống ngại ngần
Lạy cha lạy mẹ một lần oen mi
Áo nàng dâu-áo vu quy
Áo em mặc áo người đi lấy chồng
6*
Trả anh những sợi tơ hồng
Trả anh những nụ hôn nồng thắm môi
Em nuôi tóc-em làm thơ
Em nuôi tóc-em quay tơ nuôi chồng
Với anh thì cũng đành lòng
Với anh thì cũng đành lòng quên anh
7*
Trả người ta thuở xuân xanh
Trả người ta thuở xuân xanh mà buồn
Để em giữ vẹn cang thường
Để em giữ vẹn cang thường phương đông


Bài thơ này tôi viết cho Tố Huyền Trân, mối tình thoáng qua trong thời chiến. Bài thơ theo tôi không hay, chẳng hiểu sao người bạn văn nghệ lại rất thích . Đúng là mỗi người thụ hưởng tác phẩm khác nhau, không ai giống ai.
Tôi là một người bình thường như mọi người bình thường khác. Đi học, lớn lên cởi áo thư sinh mặc vào bộ đồ quân nhân và cầm súng ra mặt trận.Nhưng tôi lại không được bình thường như mọi người bình thường.Bao nhiêu hệ lụy , bao nhiêu chuyện chẳng khác nào là một huyền thoại-mà huyền thoại thì có thật bao giờ (?).Phải chăng tôi là người có chút tiếng tăm nên đột nhiên trở thành người của huyền thoại ?
Sau tháng 04/1975 , Uyên Trâm ( tôi đề cập trong những kỳ trước ) đang dạy học thì Ủy Ban Quân Quản gọi những giáo viên có người thân liên hệ chế độ cũ lên văn phòng trường họp. Khi đọc danh sách sa thải toàn bộ giáo viên , có nhiều người bật khóc. Uyên Trâm không rơi một giọt nước mắt ,mặt đanh lại hỏi : Vì sao cho tôi nghỉ dạy học ? Họ trả lời : Chồng cô là sĩ quan Biệt kích.Uyên Trâm cười nhạt bỏ ra về. Uyên Trâm là một con người quyết đoán đến sắt đá , ngược lại với tính tình của tôi nên chúng tôi đã không sống với nhau.
Còn bao nhiêu chuyện tôi không nói ra, nói làm gì, dẫu sao thì dấu chấm hết đã được đặt lên trang sữ Việt Nam, trang sử đầy xương máu của tuổi trẻ Việt Nam.


( còn nữa )









Monday, August 15, 2011

Hồi Ký Linh Phương - Kỳ 46 -







- Kỳ 46 -






Bằng cách nào đó, trong trí nhớ tôi vẫn không quên những con đường, những góc phố Sài Gòn ngày xưa. Ở đó, tôi lớn lên với nhiều kỷ niệm-kỷ niệm một đời người, một đời người là bao nhiêu năm,bao nhiêu lần của mấy mươi năm tôi xa Sài Gòn ? Tôi trở về như một đứa con đi hoang, lạ lẫm từng bước chân tìm lại thời tuổi trẻ của mình.Nhịp đập trái tim Sài Gòn không còn thời sôi nổi của những năm khói lửa, những năm quê hương oằn mình hứng chịu bao đợt pháo kích của hai bên.Nhịp đập Sài Gòn đau nhói nhiều hơn lúc Sài Gòn biết đến không khí chiến tranh bằng đêm đêm hỏa châu cháy sáng vùng ngoại ô, đêm đêm tiếng đại bác ì ầm vọng về. Sài Gòn phòng trà, quán cà phê đã đầy không khí chiến tranh lúc tiếng hát Thái Thanh, tiếng hát Khánh Ly, Nhật Trường với Kỷ Vật Cho Em.Kỷ Vật Cho Em đã đi vào lòng người thật rõ nét chân dung của những người lính cầm súng ra chiến trường.
Những người con gái năm xưa tiễn tôi lên đường đều trở thành đàn bà và những đứa con họ đã lớn, lớn như chúng tôi hồi mặc đồ nhà binh. Những người đàn bà hôm nay, những người bạn gái thời đi học, lưu bút ngày xanh, mộng bướm hồn hoa.Thời bài thơ “ Phượng Sài Gòn “ đăng trên nhật báo Dư Luận .Bài thơ rất dài, tôi chỉ còn nhớ vài đoạn như dưới đây “:





“…Buồn quá anh làm thơ đăng báo
Thương chiều mưa bụi rớt ngoài hiên
Lớp học hôm nào em khẽ bảo
Buồn như thuở ấy chúng mình quen…”

“… Anh ở Kandal chờ di chuyển
Bản đồ nào mang tọa độ Khánh Ly
Và lớp lớp hàng hàng cọp biển
Thề một lời chỉ một lần đi …”





Chúng tôi gặp lại nhau sau mấy mươi năm cách biệt , ngồi ôn lại vui buồn ngày ấy. Những khuôn mặt bây giờ chỉ còn sót lại chút gì đó của Sài Gòn mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông.Tôi nhớ cô bé Hương xinh đẹp có hàng bánh ướt trước cổng trường trung học Trần Quý Cáp mà tôi thường ghé ăn. Không biết tôi mê ăn bánh cuốn của cô bé hay tôi mê cô bé nhỉ ? Hình như là cả hai.Nhưng rồi những cuộc hành quân đã cuốn hút tôi đi mãi…đi mãi trong lửa đạn khốc liệt.
Lần đầu trở về Sài Gòn, tôi hay lang thang trên con đường LVD, ngơ ngác tìm hình bóng ai đó, phảng phất nụ cười buồn Sài gòn đã xa lắc, xa lơ.Lúc ấy, tôi gầy guộc, hốc hác với mái tóc dài , và buông xuôi cuộc đời mình ngần ấy tháng năm cải tạo.Tôi tìm lại màu áo lụa hôm nào, màu áo lụa mà sau này ký ức tôi đã có bài thơ “ Sài Gòn Áo Lụa Hôm Qua “. Hôm qua ! Chao ôi, muốn chảy nước mắt vì hai chữ “ hôm qua “ .





Ngỡ ngàng
nắm lấy bàn tay
Người xưa nay đã
khác ngày xưa xa
Sài Gòn áo lụa
hôm qua
Chỉ còn là giấc
mơ hoa ngọt ngào
Mùa mưa
sân cũ
Trúc Đào
Đành thôi thương nhớ
tình đầu dở dang
Chẳng còn
thu tím
lá vàng
Cho nên
áo lụa Sài Gòn nhạt phai
Thôi thì
cứ nắm bàn tay
Dẫu người xưa đã
khác ngày xưa xa





Màu áo lụa ngày nào , và con đường Duy Tân ngày nào giữa sân trường đại học.Tôi đi tìm màu áo lụa , tìm bờ vai nhỏ nhắn của người con gái bao nhiêu năm trôi qua. Bao nhiêu năm chẳng khác nào chiêm bao, giật mình thức dậy đầu xanh lốm đốm điểm sương. Nhưng thiên hạ trùng trùng biết đâu mà tìm đôi bờ vai của người năm cũ ? Thôi thì chì còn :




Xoè tay buồn
hứng giọt mưa
Sợ rơi lên áo người xưa
phai màu
Xót xa
một mối tình đầu
Vàng như lá úa
hôm nào bên hiên
Phố buồn
vì tại anh quên
Ra đi chẳng hẹn về .
Nên bây giờ
Sài Gòn đứng đó
ngẩn ngơ
Tìm trong thiên hạ
đôi bờ vai em

( Tìm trong thiên hạ đôi bờ vai em )








Tôi đã đứng ngẩn ngơ giữa Sài Gòn tìm màu áo , tìm bờ vai quen thuộc mà ngày đi tôi không hẹn buổi về .Tôi bỗng thương nhớ giây phút ngày xưa, giây phút gần gũi bên nhau . Những giây phút ngắn ngủi mà tôi trân quý vô cùng, tôi mang theo làm hành tranh suốt cuộc hành trình chiến tranh và tù đày của tôi.

Tôi bắt gặp ánh mắt nhìn tôi, ánh mắt u uẩn như quen thuộc lạ lùng .Người đàn bà ngập ngừng hỏi: “ Anh có phải là anh Phương, tiểu đoàn 6 Thần Ưng binh chủng TQLC không ? “. Tôi giật mình thảng thốt. Tôi chợt nhớ ra ánh mắt u uẩn của người đàn bà.” Có phải chị là Vân, người yêu của Lê , tiểu đoàn 4 Kình Ngư? “.” Dạ phải “.Ký ức tràn ngập trong tôi. Người bạn thân đời quân ngũ tên Lê tôi vẫn nhớ như in hôm hai đứa ngồi quán Giao Chỉ đường Võ Tánh. Ngồi uống bia từ 4 giờ chiều đến tối có chương trình nhảy sexy.Hai đứa lầm lì ngồi cho đến khi quán đóng cửa gần 1 giờ sáng. Trong túi không tiền, tôi tháo tấm plaque vàng 18 một lượng giao cho người chủ quán hẹn mai sẽ đến chuộc lại, dù người chủ quán không lấy.Lần cuối tôi gặp Vân là hôm đám tang Lê, nhà mẹ của Lê ở Bình Thủy – Cần Thơ.
“ Chị vẫn khỏe chứ ? “, “ Em khỏe “. “ Cuộc sống bây giờ chị thế nào rồi ?. Người đàn bà lặng lẽ cúi đầu. “ Từ ngày anh Lê chết, em về Bình Thủy ở với má ảnh, dù không cưới xin. Mấy năm trước bà mất, em lại lên Sài Gòn kiếm sống “.” Anh ra sao rồi ? “. Tôi cười.Chị cũng cười. Nụ cười vu vơ đến nghẹn lời, đến đau lòng. Sao chị không khóc, sao tôi không khóc? Đôi khi nước mắt cũng thay những điều muốn nói mà không nói được sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.” Anh Phương sao ở đây?”.” Tôi tìm chút gì còn sót lại ngày xưa chị ạ “.Những đời người, bóng hình ngày xưa, ước mơ đâu đó đã héo khô như phận người.” Trả lại em yêu…con đường Duy Tân cây dài bóng mát…” (nhạc Phạm Duy).
Không ai trả lại cho em, cho anh , cho chúng tôi một quãng đời đánh mất. Quãng đời chưa yêu vì không dám yêu, yêu rồi thì cứ sợ không có ngày về,hay ngày về với thân thể không còn nguyên vẹn, ngày về người không còn là người nữa.
“ Thôi em đi nhé anh “, “ Vâng ! Chị đi “. Người đàn bà mất hút vào biển người mênh mông.Tôi chợt nhớ là chưa hỏi chị ở chỗ nào để có dịp đến thăm và thắp cho Lê một nén nhang . Tôi thật vô tình.

Hộp thư điện tử của tôi bị đánh cấp, thư riêng tôi được gửi đến địa chỉ những người nhận đúng theo mục đích mà kẻ cắp định sẵn. Qua những thư đó, tôi nghi ngờ được kẻ cắp không mấy khó khăn.Sự độc ác của con người thật dễ sợ, thủ đoạn, lạnh lùng ,vô cảm. Tôi bất ngờ, hụt hẫng trước sự việc xảy ra. Tôi cố tin rằng chỉ là chiêm bao, hành động không thể là hành động người tôi tin tưởng-người thân thiết đã cùng qua những ngày bão giông trong cuộc đời tôi.Đêm đó, tôi thức suốt đêm, cố gắng tìm cách phục hồi lại hộp thư bị mất. Lúc ấy, đúng 3 giờ sáng. Tôi vào mục “ thư đã gửi “ có 5 thư gửi đi .Tôi xóa tất cả thư còn lại, vì tôi hiểu hộp thư này sẽ tiếp tục bị đánh cắp Và tôi xác định được thủ phạm.khi vào mục những người lạ đăng nhập . Mắt tôi như mờ đi trước dòng chữ hiển thị nơi đăng nhập.Nghi ngờ không còn nghi ngờ , thực sự là như thế ,chính xác là như thế. Đúng như tôi đoán , hôm sau tôi không còn mở được hộp thư mà suốt đêm qua đã phục hồi.Tình cảm riêng tư của tôi đã không còn gì, tấm gương vỡ lại vỡ thêm nhiều mảnh. Người càng xa người hơn.Kẻ làm điều ác, hả hê đến nhẫn tâm với những gì đạt được, liệu có giây phút nào ân hận không ? Có giây phút nào nhận ra mình sai lầm không ? Hãy để tòa án lương tâm trừng phạt họ mà thôi.

Quá khứ đã trở thành kỷ niệm, tình yêu trở thành kỷ niệm và chỉ còn trong ký ức xa xăm thời chiến tranh khói lửa.Kỷ niệm một thời thương yêu, kỷ niệm là có thật không là huyền thoại. Đã đến với nhau một lần, một lần thôi hết một đời. Dù quá khứ hay hiện tại thì tình yêu cũng sẽ vĩnh cửu trong trái tim mỗi người. Đừng để nụ cười vu vơ mãi đau lòng nhau nhé những người đàn bà thương yêu tôi.Sống là tha thứ, bao dung, là mở rộng lòng để đón nhận những gì mà thượng đế phân phát cho mỗi người chúng ta.





( còn nữa )

Monday, March 21, 2011

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 45 -

-Kỳ 45-

Gần nửa thế kỷ trôi qua, bài thơ phổ nhạc Kỷ Vật Cho Em và tác giả không đi vào quên lãng như các tác phẩm khác trong lòng công chúng. Những người yêu thơ, yêu nhạc trước 1975 và cả những thế hệ sau này vẫn tìm hiểu về bài thơ , về số phận của tác giả Linh Phương sau năm 1975. Trên website ://kekhopk.com đã có bài viết :

“ Linh Phương là ai và đã làm gì?

Hai tuần trước trên trang báo này có đăng bài “Rắc rối quanh bài thơ được phổ nhạc Kỷ Vật Cho Em,” thì có rất nhiều độc giả và thính giả của đài Tiếng Nước Tôi gọi về yêu cầu chúng tôi đăng trọn bài thơ “Kỷ Vật Cho Em”. Cũng như có thêm bài thơ nào nữa của nhà thơ Linh Phương thì xin đăng phổ biến. Hoặc những gì có liên quan đến nhà thơ này, như vấn đề tình cảm, cuộc sống, v.v...
Và hôm nay chúng tôi xin đăng vài hàng về tiểu sử của nhà thơ Linh Phương và trọn nguyên văn bài thơ của anh.

. Nhà thơ Linh Phương họ Ðoàn, 25 tuổi, gốc người miền Nam, là một sĩ quan quá nhiều binh chủng như Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Kích, Biệt Ðộng Quân. Anh bỏ gia đình lang bạt xứ người gần 10 năm, viết văn, làm thơ từ năm 1962, anh đã chủ trương
-Văn nghệ Hoa Ðông Phương (1964).
- Chủ tịch Hội Những Người Viết Trẻ (1966).
- Biên tập viên Tuần Báo Tinh Hoa (1967).
- Anh cùng Vũ Trọng Quang coi sóc cơ sở văn nghệ báo chí, xuất bản phát hành Ðộng Ðất (1968).
Sáng tác đã xuất bản:
- Áo Tím Mùa Thu (1964).
- Còn Gì Cho Em (1965).
- Trên Ngọn Sầu Ðông (1966).
- Kỷ Vật Cho Em (1971).

Nhà thơ quân đội họ Ðoàn đã dự hầu hết các mặt trận khủng khiếp trong và ngoài nước như: Dakto, Khe Sanh, A Shau, A Lưới, Cồn Tiên, Tây Ninh, U Minh (nội địa Việt Nam), Prey Veng, Kompongcham, Tonlé, Bassac (ngoại biên Cambodia), Tchepone, Ðồi 30-31 (Hạ Lào), v.v...

Là một con người nhiều tình cảm, anh đã một thời yêu say đắm người con gái mang tên Hữu Phượng, nhưng rồi không thành. Khi vào quân đội, một Hoàng Ðắc Thị Cẩm Thuyên đã yêu thơ, yêu tác giả cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt vì cuộc chiến.

Từ sau ngày cái chết của Cẩm Thuyên, hoa khôi vùng Ðịnh Quán bụi mù đất đỏ, nhiều người con gái bước chân vào cuộc đời lãng mạn của nhà thơ như: Tố Huyền Trân (sinh viên Văn Khoa), Nguyễn Thị Linh Phương (sinh viên Dược Khoa), và anh đã sống trong nồng nàn yêu thương của cô giáo Trần Uyên Trâm, ca sĩ kiêm xướng ngôn viên đài phát thanh Nha Trang.

( Nguyên văn bài thơ phổ nhạc Kỷ Vật Cho Em ) “.

Tôi không biết tác giả là ai ? Tư liệu về tôi tìm ở nơi nào ? ( theo như bài viết là sưu tầm ) trong bài tương đối chính xác. Vào những năm tháng đó, tôi viết nhiều bài thơ cho cái chết của Cẩm Thuyên, cho đứa con chưa mở mắt chào đời đã biến thành đất, thành đá vì sự nhẫn tâm của cuộc chiến Việt Nam. Sự đau đớn tận cùng đó, đối với tôi không là sắt máu mà vẫn nhẹ nhàng để tôi ru con tồi ngủ , giấc ngủ không bao giờ thức để chứng kiến những gì mà người cha và thế hệ cha phải gánh chịu.Tôi nghĩ rằng yêu thương, nhẹ nhàng yêu thương sẽ đủ sức lay động lòng người .Lời ru không hận thù bởi tôi là người làm thơ, tâm hồn của người làm thơ chứ không phải là sát nhân.


Ngủ ngoan đi búp bê ơi !
Chiều xưa nắng tắt buồn rơi xuống đồi
Quạnh hiu ba đứng giữa trời
Lòng đau như cánh hoa khô cuối mùa
Nến tàn. Gió lạnh hơi mưa
Vầng trăng phố núi nửa đời treo nghiêng
Búp bê ơi ! Hãy ngủ yên
Cho lời ru mãi ngọt mềm môi ba

( Lời Ru Cho Búp Bê )


Ru con ngủ, rồi lại gọi con thức để hiểu tấm lòng ba đối với con, để thấy những bông hoa ba hái về trước mộ cho con. Dù bây giờ , mấy mươi năm xương tàn cốt rụi, mộ cũng không còn dấu vết. Dù ba mẹ không có một đám cưới thì con vẫn là con của ba, mẹ vẫn là người vợ đau khổ trong những cái khổ của người vợ lính ngày xưa.


Đặt búp bê xuống giường
Búp bê biết nhắm mắt
Hãy ngủ cho yên giấc
Ba lên đồi hái hoa

Những cánh mimosa
Nở vàng màu áo mẹ
Ba trân trọng tặng bé
Búp bê ngoan nhất nhà

Vậy mà con đi xa
Cõi vĩnh hằng sâu thẳm
Ngây thơ nằm bất động
Ngủ giữa trời đầy hoa

Những cánh mimosa
Ba hái về để đó
Thức dậy búp bê ơi !
Ba gọi con. Ba khóc

( Thức dậy búp bê ơi )


Thực ra , mối tình giữa tôi - Tố Huyền Trân và Nguyễn Thị Linh Phương ( Nguyễn Thị Linh Phương- người mà trong bài phỏng vấn tôi của ký giả Thiện Mộc Lan báo Đuốc Nhà Nam có đề cập đến ngày xưa Linh Phương thường làm thơ cho người yêu ở trường Áo Tím thường viết “ Cho khung trời Gia Long “ ) chỉ là một thoáng qua của thời trai trẻ sau khi bặt tin thư của Thương Mặc Uyên .Tình yêu đối với tôi lúc nào cũng đẹp, dù là bội bạc nhưng lúc quay lưng vẫn có cái gì đó thật đẹp trong trái tim thơ.
Những mối tình tôi chưa hề công bố sau năm 1975, và cũng không có gì là dấu ấn trong cuộc đời của tôi.Nhưng tác giả bài viết, có lẽ là người am tường về tôi khoảng một, hai năm đầu thập niên 70, nên đã đề cập đến mối tình “ lửng lơ con cá vàng” này ( Trước năm 1969 và từ năm 1972 đến 1975 , có lẽ không được biết gì về tôi nữa nên tác giả bài viết đã không nói đến những mối tình sau đó ).

Riêng về Trần Uyên Trâm , Uyên Trâm không phải là xướng ngôn viên đài phát thanh Nha Trang, mà Uyên Trâm xướng ngôn viên chương trình tiếp vận 5 của đài phát thanh Nha Trang. Uyên Trâm là em út một gia đình nhiều anh chị em, anh hai là sĩ quan cấp Tá Bộ Tồng Tham Mưu . Tôi và Uyên Trâm chia tay nhau khi có ba con: Con gái lớn là Thiên Hương, con trai kế tiếp là Kiên Cường- Thạc sĩ và Anh Dũng con trai út -Cử nhân kinh tế.Tôi không muốn đề cập sâu về chuyện tôi và Uyên Trâm vì sao phải chia tay.Tôi nghĩ hãy để cho vết thương được lành miệng theo thời gian. Tất cả những gì của chúng tôi đều là những gì của sự tốt đẹp trong cuộc sống và cuộc đời.

Một số người thường trách cứ , quy trách nhiệm cho Kỷ Vật Cho Em là khóc than, là bi thảm hóa cuộc chiến, khiến cho QLVNCH mất hết động lực chiến đấu.Điều đó không đúng. Kỷ Vật Cho Em không bi lụy, không rên rì mà nó là chứng nhân lịch sử của một thời đại, một cuộc chiến tranh khốc liệt, chúng ta phải chấp nhận những hậu quả tất yếu của cuộc chiến đó. Thành- bại là một ván cờ trên bàn tròn, bàn vuông, bàn chủ nhật chứ không phải do những người cầm súng tham dự.Như bài thơ “ Nỗi buồn tháng tư “ của tác giả Mai Kiều Vy trên vantuyen.net có chú thích câu : “…Anh còn nhớ bài tình ca rên rỉ …” là Kỷ Vật Cho Em.Nguyên văn bài thơ đó như sau :

(Viết riêng tặng nhà thơ Linh Phương)

Tháng tư về, em tóc rối chờ anh,
Mấy mươi năm, chưa một lần trở lại,
Ngày tháng phôi pha,mong chờ khắc khoải,
Đời trôi nổi lênh đênh theo vận nước.

Nơi em về, đường trần khuya lạc bước, ....
Vắng anh rồi, mây gió cũng buồn lây,
Nơi đó bây chừ phố vẫn mưa bay?
Trời tháng tư chao ôi, buồn quá nhỉ!

Anh còn nhớ bài tình ca rên rỉ? (1)
Ru hồn anh ngủ mấy chục năm dài,
Nơi anh nằm heo hut hút những vòng đai,
Chốn anh về mù mịt chẳng tương lai,

Em ở lại với nỗi đau quằn quại,
Ngậm khối sầu, em nặng gánh hai vai,
Nơi xứ lạ, ôm cuộc đời vất vưởng,
Tháng năm dài, đêm nằm em mộng tưởng…

Anh bên em đi nốt quãng đường dài!
Đêm rơi xuống mình mặn nồng ân ái…
Rồi đêm tàn, thấy anh không trở lại,
Em hụt hẫng trong đêm dài sợ hãi...

Cả bầu trời u ám một màu đen,
Thế gian này choáng ngợp cả hơi men,(2)
Tháng tư về, em mang sầu lữ thứ,(3)
Và tháng tám, mịt mù mây che phủ…(4)

Em nhớ lắm, ôi! Những mùa thu cũ,
Gió thu về, em nặng trĩu ưu tư,
Anh bây chừ đã yên giấc ngàn thu,
Em ở lại gục đầu trong lệ đắng!...

( 04/04/08 )
------------------------------------
( 1 ) – Kỷ Vật Cho Em.

Kỷ Vật Cho Em không phải là bài tình ca, cũng không rên rỉ theo ý nghĩ của Mai Kiều Vy hay một số người nhận định về lời thơ . Đó là sự thật của tuổi trẻ thời đại chúng tôi phải chấp nhận như thế, không ai có thể phủ nhận được.


( còn nữa )

Thursday, March 10, 2011

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 43 -


Kỳ 43

Như tôi viết Hồi Ký Linh Phương về người con gái đã theo tôi qua khắp chiến trường khói lửa trong cuộc chiến tranh Việt Nam bằng những lá thư gửi từ Sài Gòn vào cuối thập niên 60. Tôi và em quen nhau vào năm 1967 khi tôi làm thư ký tòa soạn tờ tuần báo Tinh Hoa Nữ Sinh do nhà văn Nguyễn Thạch Kiên làm Chủ Nhiệm.
Thỉnh thoảng, Thương Mặc Uyên. ghé tòa soạn chơi, thường là em mặc chiếc áo dài màu trắng, dáng dấp em thật mảnh mai và dễ thương -lúc đó em còn đi học. Em làm thơ rất hay, trong nhóm Cung Thương Miền Nam của nhà thơ Nguyễn Lệ Tuân, nhà thơ Mây Viễn Xứ ( tức nhà thơ Lâm Hảo Dũng hiện định cư bên Mỹ , còn Nguyễn Lệ Tuân thì đã chết ).. Quen nhau không được bao lâu, tôi lên đường vào quân ngũ, ra đi mang theo những kỷ niệm của em và những ước mơ dở dang của mình.

Tôi đã đi qua nhiều địa danh, qua nhiều vùng chiến thuật, sống chết chỉ một tích tắc ơ hờ, hành quân không ngơi nghỉ , vậy mà tôi cứ da diết đợi chờ những lá thư của em gửi đến với bao xa cách nhớ nhung. Những lá thư của em tôi cất kỹ trong bọc nilon để trước ngực áo như lá bùa hộ mạng của người lính khi ra trận. Có lúc hành quân dưới ánh sáng hỏa châu soi từng bước chân đi, trời mưa rồi sình lầy của đồng bằng châu thổ Cửu Long. Nước xâm xấp gần ngang ngực.đi suốt đêm từ Rạch Giá qua tới Cầu Trắng - Cần Thơ, qua những cánh đồng tăm tắp, những dòng sông, kênh rạch rồi cầu khỉ trơn trợt, mưa gió lạnh run nhưng cứ sợ ướt những lá thư của em mà thôi.



Tôi vẫn thường tưởng tượng rằng :

Những sợi len màu tím
Em vui mừng đan cho anh chiếc khăn choàng cổ
Rồi ngày lạnh bắt đầu cho mùa đông
Khi chiếc lá cuối thu nằm run rẩy chết
Anh ở trong rừng
Đội nón sắt vải lưới ngụy trang
Mặc áo giáp cổ choàng khăn len tím
Lưng thắt dây đạn M.16
Tay cầm súng trong tư thế tấn công
Anh sẵn sàng chờ giặc đến
Người yêu em biết không
Em ở Sài Gòn
Em ngồi đan áo ấm
Chờ chuyến liên lạc hành quân em sẽ gởi ra mặt trận
Mà nghe em nói đây
Áo ấm em thêu tên anh kề bên tên em
Dù bất cứ ở đâu
Cồn Tiên hay Gio Linh
Đông Hà hay Đà Nẵng
Mỗi lần mặc áo là nhớ em
Nha anh

( Nói Cùng Người Yêu Ở Xa )

Chuyển vùng bốn về vùng ba với Tây Ninh, Bình Long rồi Long Khánh, rừng tiếp rừng, ngày tiếp ngày. Tôi nhớ Sài Gòn , nhớ chiếc áo dài trắng học trò của em, nhớ nụ cười của em, và nghĩ đến một ngày nào đó .


Em ở Sài Gòn em bỏ học
Anh nhớ con đường nhớ lá me
Cái sỏi nào bám chân ngà ngọc
Gió thổi tóc dài vạt áo che


Guồng máy chiến tranh đã cuốn hút tôi vào bom đạn,chiến tranh không phải là trò đùa.Một ngày nào đó, tôi sẽ không còn đôi tay để trở về dìu em dạo phố,không còn đôi chân để đưa em đến giảng đường, không còn đôi mắt để nhìn em trong chiếc áo dài của thời hoa bướm mộng mơ. Thời gian cứ dài ra… dài ra…thư của em thì thưa dần … thưa dần …rồi bặt tăm. Tôi không hiểu tại sao ? Anh không hiểu tại sao TMU ơi ? Nhưng tôi chỉ biết rằng nỗi buồn ấy, tôi vẫn không buồn kịp theo từng chuyến hành quân, theo cuộc chiến triền miên trên đất nước mình..

Chúng tôi mất liên lạc nhau cuối năm 1969, tôi không còn nhận được lá thư nào của em nữa. Chiến tranh khiến chúng tôi yêu chưa kịp yêu, hẹn hò chưa kịp hẹn hò ,buồn chưa kịp buồn, nhớ chưa kịp nhớ. Mỗi buổi sớm mai thức dậy, tôi mới biết tôi còn sống, còn được nhìn mặt trời rực rỡ sau kẽ lá chòm cây. Còn được thả hồn về Sài Gòn hoa lệ, về với Bà Hạt với con đường Nguyễn Duy Dương quận 5, nơi bóng dáng người con gái nhỏ làm thơ rồi trở thành nhà thơ giữa mùa quê hương ly loạn . Thả hồn về nhà in Thanh Long tòa soạn tuần báo Tinh Hoa Nữ Sinh trong con hẻm đường Võ Tánh, nơi bước chân em đến sau giờ tan học nào đó. Đối với tôi, một chút gì của em đều là kỷ niệm tôi, một chút gì của em tôi đều nâng niu , chăm chút mang theo làm hành trang cho chuyến hành trình vô tận. Chuyến hành trình mà người con gái nào nếu có người yêu, người phụ nữ nào nếu có chồng ra mặt trận đều chung một câu hỏi “ Em hỏi anh bao giờ trở lại “. Và bất cứ người lính nào cũng chỉ có thể trả lời rằng “ Mai mốt anh về “, câu trả lời xót xa đến thế, đau đớn đến thế.





Xa nhau , thời gian dài theo cuộc chiến cho đến ngày kết thúc chiến tranh vẫn không một tin tức gì về em.Khoảng năm bảy năm trước, một người bạn nói với tôi em hiện định cư tại Mỹ với chồng con. Tôi rất vui mừng biết em còn sống, được hạnh phúc bên chồng con.Mấy mươi năm bể dâu, tôi lận đận giữa đời trầm luân sau mấy năm cải tạo trở về. Tôi không bật tiếng rên khi bị người ta đánh đập, tôi không bật tiếng than khi vất vả chuyện mưu sinh.Chuyện thành bại của một ván cờ đã đi vào quá khứ, nhưng giấc ngủ ở tôi chưa đêm nào được yên giấc.Tôi cứ ray rức khôn nguôi về những người thương yêu thời trai trẻ như “ sông dài cá lội biệt tăm…”. Con đường lông ngỗng trắng vời vợi mà đôi chân tôi đã bật máu bao lần .Lắm lúc…


Anh hụt hơi chạy về phía ban mai chân trời
Nơi có một mối tình và giấc mơ riêng nồng thắm
Giấc mơ không thấy hỏa châu – không nghe tiếng ầm ầm bom đạn
Mối tình không xa khuất vì vạt rừng- góc núi - dòng sông
Anh đã đi qua ngần ấy thời gian chiến tranh
cũng như em đã đi qua ngần ấy nỗi buồn
Lặng lẽ đợi chờ – âm thầm thương nhớ
Phía ban mai chân trời quá khứ
Anh chạy hoài – chạy mãi- không đến được cùng em
Hụt hơi ngã sấp xuống mặt đường–lưỡi dao cuộc đời cắm sâu vào lồng ngực
Máu đỏ thành hoa
Con bướm vàng tuổi thơ chợt hiện về trong ký ức
Bên vòng kẽm gai giữa mùa khói lửa điêu linh
Em đứng khóc một mình phía ban mai chân trời không có anh
Không có anh
Không có anh

( Phía ban mai chân trời )


Cách đây một năm ,tôi được một người bạn văn nghệ kể TMU đã chết vì bệnh..Tôi bàng hoàng không muốn tin lời người bạn văn nghệ, tôi cũng không sao kiểm chứng được em thực sự qua khỏi kiếp người hay còn tồn tại ở thế gian ? Tôi vẫn hy vọng sẽ gặp lại em, người con gái trong chiếc áo dài trắng của hơn 40 năm trước. Ngày tôi còn là một thanh niên nhìn cuộc đời sau lăng kính màu hồng Ngày em còn là một thiếu nữ hồn nhiên lắm mộng nhiều mơ. Trái tim em ngừng đập rồi để lại tôi vết thương thời trai trẻ, chỉ một lần đến cùng nhau-một lần là xong một đời, là mãi mãi vĩnh biệt thiên thu.Nỗi buồn tôi nuốt, tôi giữ trong lòng chật hết, niềm vui thì bay theo gió ngàn lẫn khuất xa xăm.Bay đi nhé gió ơi, bay về chỗ nào thăm thẳm có em.

Thứ bảy 05/03/2011. Tôi nhận được email tên…vn… chỉ vỏn vẹn hàng chữ “Nhờ bạn tôi gửi đến Linh Phương.....khi nào có thể.. “ và 2 câu thơ của em :


Ngàn năm dưới mộ em sầu
Nhớ người lính trẻ...........tình đầu khôn nguôi !

TM.Uyên.

Tôi sững sờ, hoang mang vì những dòng chữ và 2 câu thơ này. Tôi thẫn thờ đọc không biết bao nhiêu lần để hiểu rõ câu “ Nhờ bạn tôi gửi đến Linh Phương…khi nào có thể “. là sao ? Phải chăng bạn em gửi đến tôi hai câu thơ của em là lời trăn trối sau cùng của em trước phút lâm chung ? Hai câu thơ : “ Ngàn năm dưới mộ em sầu. Nhớ người lính trẻ… tình đầu khôn nguôi “ như những mũi kim đâm vào trái tim đầy vết xước của tôi.TMU. ơi ! Hai câu thơ sao mà khổ đau thế hả em ? Người lính trẻ ấy với mối tình đầu, bây giờ tóc đã điểm hoa sương sau mấy mươi năm bị đời vùi dập. Mấy mươi năm hệ lụy chiến tranh dai dẳng không ngờ.Tôi là kẻ mộng du đang chạy trên những nóc nhà cao tầng xã hội mới, tôi sợ một ngày rớt xuống đất không có được một lời trối trăn . Đầu óc tôi miên man suy nghĩ về cái chết của em. Về hai câu thơ như một lời thề của một người con gái gửi lại người xưa biền biệt mấy mươi năm .Chiến tranh đã không giết được người lính thú hơn 40 năm trước của em. Vậy mà kết thúc chiến tranh rồi định mệnh vẫn không cho anh và em một lần hội ngộ.

Tôi vẫn không tin em chết, em chưa chết, em vẫn còn sống một nơi nào đó trên quê hương của mình. Em vẫn còn sống ở nơi nào đó ở bên kia nửa vòng trái đất hạnh phúc với chồng con.Những lời trong email ,hai câu thơ em gửi chỉ là đùa thôi, chỉ là chút nghịch ngợm như thuở em còn cắp sách., thuở em và anh quen nhau thôi mà, phải không TMU ? Tôi không tin em chết, nên tôi gửi theo địa chỉ email : “ Tôi là Linh Phương, nhận được email này tôi rất xúc động khi đọc hai câu thơ của TMU. Đã hơn 40 năm rồi, xin ai đó cho tôi biết TMU. ngày xưa có phải là TMU. gửi cho tôi email này không ? Và cuộc sống của TMU. bây giờ ra sao . Tôi rất nóng lòng được biết”., và tôi chờ đợi email hồi âm .Tôi không tin em chết khi nhận được email ngày thứ bảy 50/03/2011.Em không chết em chỉ đùa với anh thôi phải không TMU. ? Đùa với người cũ của em thôi mà. Rồi em cũng sẽ xuất hiện gặp lại “…người lính trẻ tình đầu khôn nguôi “ của em thôi.
Tôi nhận được email ngày thứ hai 07/03/2011, không trả lời những gì tôi muốn biết, chỉ có hàng chữ “n… là một email chung của những người bạn cũ , để nhớ một thời áo trắng.”, và 4 câu thơ của em :

“ Người xưa nát với cỏ cây
Tình xưa phiêu hốt theo mây cuối trời
Linh Phương ơi...... mộng xa vời
Thư xanh ngày cũ ngậm ngùi nhớ nhau.”
- TM.Uyên-

Tôi rớt nước mắt đọc những câu thơ của em. Tôi tin em còn sống một cách lạ lùng, dù những câu thơ kia là của người chết.Nhưng tại sao em không muốn gặp mặt Linh Phương hả em ? Chiến tranh đã xô dạt đời anh xa em, một lần xa mà hơn 40 năm trời, thì tại sao, tại sao em vẫn muốn đùa với anh như ngày xửa ngày xưa ?. Tôi không tin TMU. chết, tôi gửi email cho những người bạn thời áo trắng của em .” Xin những người bạn cũ của TMU. vui lòng cho tôi biết về TMU.. Vì trước đây tôi có hỏi những người bạn văn nghệ được biết TMU. với chồng con định cư tại Mỹ. Mấy năm nay tôi được tin TMU. bệnh và đã không còn sống trên cõi đời này . Dù sống hay chết, dù cuộc sống hiện nay ra sao , xin những người bạn cũ của em cho tôi biết rõ hơn.Đừng để tôi hoang mang, đau lòng khi nghĩ đến em ….”.

( còn nữa )

Thursday, March 3, 2011

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 42 -


- Kỳ 42 -


RẮC RỐI QUANH BÀI THƠ ĐƯỢC PHỔ NHẠC “ KỶ VẬT CHO EM “


Tuần qua đài Tiếng Nước Tôi có yêu cầu chúng tôi nói về bản nhạc “Kỷ Vật Cho Em,” bởi cho đến bây giờ rất nhiều người vẫn lầm tưởng bản nhạc nói trên là do nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác.
Là người phụ trách chương trình cổ nhạc của đài, cũng đồng thời phụ trách trang cổ nhạc kịch trường của nhật báo Người Việt, chúng tôi viết lên bài này để độc giả, thính giả, chúng ta cùng hiểu qua giai thoại về bản nhạc từng một thời gây chấn động mọi giới.
Thật ra thì “Kỷ Vật Cho Em” nếu không có chuyện rắc rối xảy ra thì nó cũng là bản nhạc thuộc loại “phản chiến” như nhạc của Trịnh Công Sơn vậy thôi. Nhưng vấn đề ở đây là do có liên quan đến luật pháp về tác quyền đối với nhạc sĩ tên tuổi Phạm Duy, nên sự kiện đã trở thành lớn chuyện.



Hình chụp tại một quán ca nhạc ở Sài Gòn, lúc nhạc sĩ Phạm Duy mới về Việt Nam. Bên trái là ký giả Lê Phương Chi,
cũng là nhà văn Thái Tâm Canh, tác giả bộ truyện Trung Hoa lịch sử tiểu thuyết “Ðào mả Tần Thủy Hoàng”. (Hình: Bộ sưu tập của Ngành Mai)

Thời ấy vào khoảng 1971, giới yêu nhạc đã xôn xao bàn tán khá nhiều về bản nhạc “Kỷ Vật Cho Em,” vì ai cũng đinh ninh rằng do chính nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy sáng tác như hằng bao nhiêu bản nhạc khác của nhạc sĩ vậy. Thế rồi, đùng một cái, tin tức loan truyền mau lẹ không riêng gì trong giới yêu nhạc mà lan rộng sang nhiều giới khác, rằng bản nhạc kia nguyên là bài thơ “Kỷ Vật Cho Em” của một thi sĩ quân đội mà nhạc sĩ họ Phạm đã chơi trò ma giáo phổ nhạc của người ta rồi tỉnh bơ luôn!


Bài thơ “Kỷ Vật Cho Em” với những câu:

Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến thắng trận Pleime
Hay Ðức Cơ - Ðồng Xoài - Bình Giã
Anh trở về hàng cây nghiêng ngã
Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng...

Cũng bằng những dòng thơ đó, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ thành bài nhạc “Kỷ Vật Cho Em,” một nhạc phẩm đã tạo nhiều tiếng vang sâu rộng trong lòng giới yêu chuộng nhạc thời bấy giờ (khoảng 1970). Ðã nổi tiếng rồi, qua năm sau bản nhạc lại được đưa lên bàn mổ để thêm một lần nữa nổi tiếng nhiều hơn, và lần này đã gây chấn động không những trong làng ca nhạc mà lan rộng ra nhiều giới khác, do một rắc rối xảy ra như sau:

Nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc bài thơ “Kỷ Vật Cho Em” của nhà thơ Linh Phương mà tác giả không hề được hỏi ý kiến, cũng không được hưởng một xu nào cả khi bản nhạc được xuất bản, và sau hết là tên tác giả bài thơ bị xóa bỏ trong tuyển tập nhạc của Phạm Duy. Cũng nên biết có lúc giới trẻ yêu nhạc đã gọi nhạc sĩ Phạm Duy là “Bố già Hippy”.


Nhà thơ Linh Phương. (Hình: Bộ sưu tập của Ngành Mai)


Bản nhạc nêu trên qua thời gian coi như đã đi vào lịch sử âm nhạc, văn học Việt Nam. Thế nhưng, đối với lớp người thuộc các thế hệ sau này có mấy ai am tường những rắc rối bao quanh bản nhạc “Kỷ Vật Cho Em” lúc nó mới ra đời? Cũng như có mấy ai biết rõ nguồn gốc bản nhạc được giới mộ điệu liệt vào một trong số những bản nhạc hay, bất hủ ấy vốn xuất phát từ bài thơ của một người chiến sĩ có tâm hồn văn nghệ. Ðồng thời lại cũng có người lầm tưởng bản nhạc kia là hoàn toàn của Phạm Duy như đã đề cập.
Cái điều mà thiên hạ thắc mắc lúc bấy giờ là nhà thơ kia là ai? Và tại sao bản nhạc được phổ biến gần cả năm trời rồi mà tác giả lại im lặng như thế chứ? Lúc ấy tại những tụ điểm ca nhạc thì hầu như ngày nào cũng có ca sĩ hát bài “Kỷ Vật Cho Em” và có hát là có người bàn bạc về tác giả cũng như nội dung bài thơ.

Rồi lại có tin nói rằng tác giả bài thơ ấy là một chiến sĩ đã chết trận, nên chỉ nghe nói mà không thấy xuất hiện. Thế là bao nhiêu huyền thoại được tung ra, nào là Linh Phương tác giả “Kỷ Vật Cho Em” đã chết trận ở Huế, nào là tác giả là một vị thiếu tá cụt tay của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, trung úy một chân của Biệt Ðộng Quân, v.v...

Rồi thì việc phải đến đã đến, nhà thơ Linh Phương xuất hiện, anh là một sĩ quan binh chủng Biệt Ðộng Quân, Biệt Kích, 25 tuổi, gốc người miền Nam. Sau lần giã từ hiểm địa Hạ Lào, nhà thơ Linh Phương trở về thành phố và nhân một lần tình cờ ngồi ở phòng trà Queen Bee nghe tiếng hát Thái Thanh qua bản nhạc “Kỷ Vật Cho Em” của tác giả Phạm Duy. Anh sửng sốt vì bản nhạc là bài thơ anh sáng tác vào đầu năm 1970 gửi cho nhiều nhật báo, tuần san. Riêng tờ Ðộc Lập, anh sửa tên lại là “Trả Lời Cho Một Câu Hỏi” đăng trên mục thơ do cô Ấu Lăng phụ trách vào Tháng Năm, 1970. Một bất ngờ hơn nữa người bạn của anh trao cho anh mượn tập nhạc “Kỷ Vật Chúng Ta” của Phạm Duy, trong đó có bản “Kỷ Vật Cho Em,” tên tác giả bị bôi xóa, niên hiệu bài thơ lại đề năm 1968.

Anh hơi buồn về chuyện đó nên nhờ người bạn ký giả một tờ tuần báo đăng vài hàng nhắn tin cần gặp nhạc sĩ Phạm Duy. Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy vẫn không đá động gì, nên nhà thơ quân đội Linh Phương buộc lòng phải gởi thư lên tiếng cùng Phạm Duy về bản nhạc.

Giờ đây thì vụ rắc rối này không là chuyện riêng tư của Phạm Duy và Linh Phương nữa, vì mọi người đều đã biết đến qua báo chí. Sau mấy ngày báo đăng, rằng nhà thơ Linh Phương tác giả bài thơ “Kỷ Vật Cho Em” sẽ đưa nhạc sĩ Phạm Duy ra tòa về việc phổ nhạc không có sự chấp thuận của tác giả, cuộc lên tiếng của Linh Phương đã bắt buộc Phạm Duy phải nhờ người đi tìm đến số nhà 104/23 Yersin, Sài Gòn, nơi cư ngụ của anh để điều đình về bản nhạc “Kỷ Vật Cho Em.”

Nhạc sĩ Phạm Duy cho báo chí biết là ông đang thảo một bức thơ ngỏ để trả lời nhà thơ Linh Phương, sở dĩ ông phổ nhạc bài thơ “Kỷ Vật Cho Em” là vì đã lâu lắm tình cờ ông đọc thấy bài thơ hay hay trong một tờ nhật báo, và ông đã nổi hứng đặt nhạc cho thơ, cũng như đã từng phổ nhạc cho thơ của Huy Cận, Thế Lữ, Nguyễn Du.
Rất tiếc khi tập nhạc được phát hành, nhà xuất bản đã sơ xuất bỏ quên tên của nhà thơ trên bản nhạc, và ông đã lưu ý nhà xuất bản cải chính giùm lỗi này cũng như mười mấy lỗi trầm trọng khác. Ðồng thời ông cũng yêu cầu các nhà xuất bản kiếm nhà thơ để giải quyết vấn đề tác quyền, nhưng nhà xuất bản kiếm không ra vì không ai biết nhà thơ Linh Phương là ai? Ở đâu?

Về việc kiện cáo, nhạc sĩ Phạm Duy cho là không thành vấn đề, vì nhà phát hành phải lo chuyện này. Tuy nhiên, việc nhà thơ Linh Phương lên tiếng, Phạm Duy cho đó là dịp may để ông được biết rõ tên thật và binh chủng của thi sĩ, để ông có thể ngỏ lời mời tới gặp và sẽ đưa tới gặp nhà xuất bản để những người này làm bổn phận của họ.

Và sau đó thì lá thơ của Phạm Duy được lên báo:

Sài Gòn, ngày 11 Tháng Tám, 1971.
Kinh gởi anh Linh Phương.

Trước hết, tôi xin thành thật xin lỗi anh vì đã liên lạc với anh quá chậm trễ, nhưng cho mãi tới hôm nay tôi mới được biết anh ở đâu tên thực là gì, dù rằng đã từ lâu tôi đã nhờ thi sĩ Phổ Ðức, Du Tử Lê cũng như đã nhờ vài người bạn quân nhân cùng binh chủng với anh bằng cách đăng tin tìm anh trên nội san của binh chủng mà chưa có kết quả. Nay anh đã liên lạc được với tôi qua báo chí, thì tôi thấy đành phải nhờ báo chí để liên lạc với anh (trong khi tôi mong được gặp anh để đỡ phải làm phiền hà báo chí).

Là một người rất yêu quý tất cả những cái đẹp của quê hương xứ sở (trong đó có thi ca), tôi thường hay tìm cách để giới thiệu cái đẹp đó cho mọi người biết. Việc phổ nhạc bài thơ của anh cũng chỉ nằm trong mục đích đó. Tôi không nhớ đã đọc và thuộc lòng bài thơ của anh vào lúc nào và cũng quên hẳn không biết bài đó đăng ở đâu, nhưng chắc chắn phải là vào lúc mà người bạn thơ Trần Dạ Từ và tôi đồng ý với nhau rằng những kỷ vật mà chúng ta tặng nhau lúc đó chỉ có thể là những vỏ đạn, mảnh bom hay dây thép gai. Tập thơ “Tỏ Tình Trong Ðêm” của Từ cũng mang rất nhiều ý tính đó. Cho nên bài thơ của anh được phổ thành ca khúc đã mang tên “Kỷ Vật Cho Em” trong khi, nếu tôi không lầm, nó được anh đặt tên là “Trả Lời Cho Một Câu Hỏi.”

Những điều anh trách tôi như: “Không đăng tên thi sĩ hoặc đăng sai năm ra đời” thì việc này xin được giải thích như sau:

1. Tất cả những bài bản của tôi làm ra trong vòng 30 năm nay đều không do tôi ấn hành xuất bản. Thường thường, gần đây là những bạn thân bỏ tiền ra in, và thường tôi ít được duyệt lại lần chót trước khi hoàn thành tuyển tập. Do đó, ngoài lỗi lầm lớn lao đã không đăng tên anh, còn khoảng 12 lỗi khác cũng rất quan trong, và khi tuyển tập ra đời, tôi đã nói với anh bạn xuất bản nên in một “phụ bản đính chính” (erratum) tất cả những khiếm khuyết hay sai lầm. Dù sao tôi cũng nhận lỗi đã không cứng rắn đối với anh bạn xuất bản. Từ nay trở đi chắc tôi sẽ khó tính hơn.

2. Việc đề niên hiệu của ca khúc rất có thể do trí nhớ kém cỏi của tôi hoặc do vội vàng đưa bài ca đó vào lúc chót: Xin thú thật với anh bài thơ bất hủ của anh được phổ thành ca khúc đã không được phép hát và ấn hành; nhà xuất bản cũng như những nơi phổ biến ca khúc đó không bị phiền hà cũng là một sự may rủi.

Tôi hiểu sự buồn giận của anh và mong anh sẽ hiểu cả sự vô tình mắc lỗi của tôi. Tôi tự nghĩ trong suốt cuộc đời sáng tác của tôi, ngoài sự gìn giữ sự tự do tuyệt đối của mình có thể làm cho nhiều người không ưa, tôi chưa hề bao giờ phải làm buồn lòng những người làm thơ mà tôi phổ nhạc. Tôi ước ao anh sẽ không phải chỉ làm một bài thơ đó để cho tôi phổ nhạc và mong anh sẽ còn cho cuộc đời nhiều thi phẩm bất hủ hơn.
Ngoài ra, tôi mong được gặp anh để người bạn xuất bản có thể thanh toán tiền tác giả.


215 B Chi Lăng Phú Nhuận Sài Gòn
Phạm Duy


Kết cuộc thì vấn đề được giải quyết ổn thỏa bằng một sự thông cảm hết sức văn nghệ chớ không dính dáng gì đến tiền bạc. Sự thông cảm thể hiện rõ hơn khi Phạm Duy đích thân mời Linh Phương trong quân phục tác chiến tới dự buổi trình diễn của gia đình Phạm Duy tại phòng trà Queen Bee. Khán giả đêm đó đã biết mặt nhà thơ Linh Phương tác giả bài thơ “Kỷ Vật Cho Em” mà họ tán thưởng từ lâu qua lời giới thiệu trịnh trọng của nhạc sĩ Phạm Duy.

Tháng Tư, 1975 nhạc sĩ Phạm Duy di tản ra hải ngoại, và ông đã về nước sống tại Sài Gòn nhiều năm qua, thỉnh thoảng người ta cũng thấy ông ở các tụ điểm ca nhạc. Riêng nhà thơ Linh Phương thì sau ngày quân đội VNCH tan hàng, người ta không biết anh ở đâu, sống bằng nghề gì.

Đó là một bài viết mới nhất về những giai thoại chung quanh bài thơ “ Trả Lời Một Câu Hỏi “ thơ Linh Phương , nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc “ Kỷ Vật Cho Em “của tác giả Ngành Mai trên nhật báo Người Việt . Bài viết chính xác , tuy nhiên cũng có vài chi tiết mà tôi cần bổ sung thêm để bạn đọc có thông tin thật rõ ràng. Trong bài viết,tấm ảnh tôi mặc quân phục Biệt Động Quân trong bộ sưu tập của tác giả Ngành Mai là tấm ảnh tôi chụp trước Hội Trường Diên Hồng, được đăng trong bài viết về tác giả Linh Phương của ký giả Huy Trường , phụ trách trang kịch trường-tân nhạc báo Lập Trường của GS. Nguyễn Ngọc Huy trong Phong Trào Cấp Tiến. Những huyền thoại về tôi cũng được Vĩnh Kha viết lời bạt cho tập thơ “ Kỷ Vật Cho Em “ do Cơ sở Động Đất xuất bản ( trang 1,2,3). Tôi xin trích một đoạn lời bạt : “ …Như một thứ linh thiêng lì lợm qua những binh chủng đồ trận Thủy Quân Lục Chiến-Biệt Động Quân. Như một thứ phù thủy uy quyền tối thượng, nhà thơ họ Đoàn đã làm say mê bao nhiêu trái tim yêu thơ, yêu tác giả qua bút hiệu Linh Phương-Vương Thị Ái Khanh- Phạm Thị Âu Cơ,,,một thời được mệnh danh là hiện tượng lạ trong thi ca hiện chiến Việt Nam….Nếu như bài thơ “ Kỷ Vật Cho Em “của Linh Phương mà anh Phạm Duy phổ nhạc với tiếng hát Thái Thanh làm rúng động dư luận bằng những huyền thoại đầy hào quang cho nhà thơ họ Đoàn như nào là Linh Phương Trung úy một chân, nào là Linh Phương đã tử trận ở chiến trường Hạ Lào, nào là Linh Phương Thiếu Tá cụt tay của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, nào là Linh Phương hạ sĩ,,v,,v,,”
.Lúc nhạc sĩ Phạm Duy tìm được tôi qua người cháu của ông là Phạm Duy Nghĩa sĩ quan Phòng Tâm Lý Chiến của Bộ tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến ( tôi nói trong Hồi Ký Linh Phương ) lúc đó tôi ở Tiểu đoàn 6 TQLC, sau tôi chuyển qua binh chủng Biệt Động Quân thời gian rất ngắn nên tôi không đề cập trong tiểu sử của mình.

( còn nữa )

Tuesday, February 22, 2011

Hồi Ký Linh Phương



- Kỳ 41 -



“ Kỷ Vật Cho Em “ như tôi đã nói trong những kỳ đầu tiên của Hồi Ký, đã có những dư luận đánh giá khác nhau về nội dung của nó. Trên website ở hải ngoại có bài viết của một tác giả binh chủng Nhảy Dù cho rằng QLVNCH thất bại trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 qua Hạ Lào một phần là do bản nhạc Kỷ Vật Cho Em đã làm nản lòng anh em chiến sĩ. Website Văn Tuyển có bài “ Phạm Duy – “ Hữu xạ tự nhiên hương “ Ngọc Thiên Hoa viết : “…Nếu bài ''Bà mẹ Gio Linh'' bị VM cấm như NL nói vì lời bài hát gây tâm lý chán chường cho những người cầm súng miền Bắc thì bài ''Kỷ vật cho em'' phổ thơ Linh Phương của PD cũng gây ''lạnh gáy'' cho phía Quốc Gia khi lời bài hát lại thê thảm hơn cho ngày về của một... thương phế binh: ''Anh trở về trên đôi nạng gỗ. Anh trở về vì đã cụt chân''. Phạm Quang Tuấn trong “Nghệ thuật phổ nhạc của Phạm Duy" nhận xét: “Thoạt nghe qua và nhìn vào nhạc, khó thấy là nhạc bài này hay ở chỗ nào. Nhưng không thể quên được cái tác dụng mà nó gây cho thính giả miền Nam trong thời chiến. Phạm Duy kể là mỗi lần nó chơi ở phòng trà là như có "riot". Tôi còn nhớ khi ở New Zealand bọn du học sinh chúng tôi được nghe băng này, đứa nào cũng bàng hoàng. Thậm chí có người ở miền Nam đã cho rằng bài này là một trong những lý do làm miền Nam thua! Tại sao bản nhạc này lại có một tác dụng mạnh như thế? Ðành rằng lời cũng có ảnh hưởng, nhưng những lời phản chiến như vậy ở miền Nam ngày xưa không phải là quá hiếm”. (tuanpham.org). Nhưng tất cả những bài hát có nội dung trên đều phản ảnh một phần sự thật của một cuộc chiến mang tên “Cuộc chiến chống ngoại xâm (1945 – 1973) và thống nhất đất nước (1973 – 1975)” mà người nhạc sĩ nào có tình quê hương, có lòng trắc ẩn không thể cho qua. Người nhạc sĩ tài năng và có lương tâm dù phục vụ cho một chế độ nào, dưới con mắt tinh anh và tâm hồn đầy chất nhạc trời phú của mình, tất cả những nỗi niềm thống thiết, những số phận không may đã, đang và sẽ được tái tạo qua từng nốt nhạc trong khả năng trời ban cho họ. Nốt nhạc không biết rung động với nỗi thống khổ, buồn vui của nhân loại, nốt nhạc… chết!... Con đường âm nhạc của PD gắn bó với những dòng thơ của bạn bè như cùng nhau chia sẻ những rung cảm: Người thì cảm bằng những nốt nhạc, người thì cảm bằng những lời thơ. Những thi nhân từ những bước đi chập chững, qua nhạc ông đã trở thành những nhà thơ được cả nước biết đến như Nguyễn Bính với ''Cô hái mơ'' (có nơi ghi của Hoàng Giác), Huy Cận với ''Ngậm ngùi'', Cung Trầm Tưởng với ''Tiễn em'', ''Em hiền như masơ'' của Nguyễn Tất Nhiên, “Tây tiến” của Quang Dũng, “Ngày xưa hoàng thị” của Phạm Thiên Thư, "Kỷ vật cho em" của Linh Phương... ”.
Tôi cho rằng sự thất bại của QLVNCH hay “ gây lạnh gáy cho phía Quốc Gia” chỉ là một cách nhìn phiến diện, cách nghĩ thiển cận không thực tế. Chính cách nhìn đó, cách nghĩ đó làm tổn thương những người một thời cầm súng. Chiến tranh là tàn nhẫn, là đau thương -sự thật lại càng tàn nhẫn , đau thương hơn. Chúng ta không được quyền tô hồng, đánh bóng, mỵ người cầm súng bằng sự dối trá. Kỷ Vật Cho Em là sự thật của cuộc chiến, sự thật mà tuổi trẻ ( không riêng gì miền Nam ) phải gánh chịu vì hoàn cảnh lịch sử của cả dân tộc Việt Nam, không ai có thể chối cãi được.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, bao nhiêu mất mát đau thương, bao nhiêu oan khiên đã trút xuống đôi vai người dân hai miền Nam -Bắc.Bao nhiêu gia đình ly tán, bao nhiêu mối tình gạt nước mắt phân ly. Có người phụ nữ khi đọc bài thơ “ Truyền Thuyết “ của tôi :


Lông ngỗng ngày ấy Mỵ Châu trao
Trọng Thủy thầm giấu trong ngực áo
Ba mươi năm ngược xuôi tìm dấu
Thương ” sông dài cá lội bặt tăm (*)”

Hạt lệ hóa thành ngọc biển Đông
Lấp lánh mang nỗi buồn ly biệt
Không thể nào giống như truyền thuyết
An Dương Vương chém chết con mình

Trọng Thủy dang tay níu mối tình
Xa hơn nửa vòng quay trái đất
Mỵ Châu sống êm đềm hạnh phúc
Để tim chàng đau mãi khôn nguôi

Vầng trăng khuya nhỏ máu khóc đời
Mang giấc mơ theo đường lông ngỗng
Truyền thuyết vẫn còn trang để trống
Cho người sau viết chuyện tình xưa

( Linh Phương )
(*) –ca dao


đã nói rằng : “Trong cuộc đời Linh Phương có những mối tình đi qua-mỗi một mối tình ấy ví như mỗi một chiếc lông ngỗng của Mỵ Châu dẫn đường cho anh tìm lại được người xưa “. Tình yêu không có sự chia ly mà tự nhiên như cỏ cây, trời đất vẫn cứ thế nhớ nhau , cứ thế lớn theo từng ngày .Nhưng cũng có những mối tình chết dần , chết mòn giữa binh đao, giữa ngục tù khi câu trả lời chỉ là “ mai mốt anh về “. “ Mai mốt anh về “ có thể rất gần, “ mai mốt anh về “có thể dài đăng đẵng như cuộc chiến tuổi trẻ Việt Nam hai miền tham dự.

Ngày từ giã mái trường, từ giã cặp sách học trò ở tuổi thanh xuân, chúng tôi ra đi với bao ước vọng hòa bình.Tâm hồn chúng tôi như tờ giấy trắng chưa lấm lem vết mực, tay cầm bút trở thành cầm súng, hồn nhiên không chút hận thù. Áo thư sinh thay bằng áo lính,thấy yêu làm sao lúc giã từ mối tình thơ dại học trò.


Trước ngày anh vào lính
Trước ngày anh cầm súng giữ quê hương
Xin cho em nụ hôn thật dài
Nụ hôn như bông hồng rạng rỡ buổi sớm mai
Ơi ! Buổi sớm mai anh chợt yêu đời quân đội
Buổi sớm mai anh thay áo học trò
Buổi sớm mai anh mặc đồ nhà binh
Rồi em sẽ xa anh
Rồi em sẽ nhớ anh
Thôi trước ngày anh vào lính
Hãy ngủ cùng em đêm nay lần cuối cùng
Hãy dã man trên thân thể con gái còn đẹp tuổi hồn nhiên
Hãy ôm em thật chặt
Hãy nói thương em thật nhiều
Trước ngày anh vào lính
Em không tiễn đưa anh bằng nước mắt
Vì em vẫn còn hy vọng
Ngày mai anh vào lính
Ngày mốt xứ sở hòa bình

( TRƯỚC NGÀY ANH VÀO LÍNH -1967 trong tập KVCE )



Những mối tình học trò ấy đẹp vô ngần, tâm hồn thanh niên ấy đẹp vô ngần, ước mơ ấy đẹp vô ngần . Vậy mà chúng tôi phải đau đớn khi mỗi một viên đạn rời khỏi nòng súng của mình. Trò chơi sinh tử lạnh lùng , tàn ác khiến cho xương máu anh em chúng tôi trải dài theo các địa danh khốc liệt. Mấy mươi năm, ai đã đánh cắp tuổi thanh xuân của chúng tôi ?. Mấy mươi năm , bây giờ anh em chúng tôi có người vĩnh viễn nằm yên dưới ba tấc đất, có người mang thương tích tật nguyền phải khổ đau vì cuộc mưu sinh khắc nghiệt để tồn tại phần đời còn lại. Mấy mươi năm những người còn sống bạc tóc hết rồi- sống mà ray rứt mãi khôn nguôi- sống để thấy mình có lỗi với đất nước, với đồng bào thân yêu của mình dù quê nhà hay hải ngoại .Nhìn lại đi cuộc chiến này với một cái nhìn bao dung, nhân ái giữa người Việt Nam với người Việt Nam.

( Còn nữa )

Wednesday, December 15, 2010

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 40 -

-Kỳ 40 -


Bài thơ “Để trả lời một câu hỏi “ phổ thành ca khúc “ Kỷ vật cho em “đã gần nửa thế kỷ trôi qua. Cuộc chiến tranh lùi dần vào quá khứ , người Việt Nam ở hải ngoại hay quê nhà vẫn không quên một bản nhạc nổi tiếng trong năm tháng đạn bom .Tuổi trẻ ngày xưa không còn nữa, những người cầm súng tóc đều lấm tấm điểm hoa sương, hoặc đã nằm xuống ở hải ngoại hay quê nhà. Nhưng họ vẫn nhớ như in “ Kỷ vật cho em “ ,vì đó là hình ảnh một thời điêu linh mà họ chen vai gánh chịu. Những người may mắn ra đi trót lọt xứ lạ quê người có cuộc sống phồn vinh; những người ở lại nuốt lệ vào lòng với những nhọc nhằn nơi quê hương của mình .Những người còn nguyên vẹn hình hài dù sao cũng đỡ hơn những anh em mang thương tích tật nguyền.Một phần thân thể gửi cho mảnh đất đầy xương máu, một phần thân thể còn lại lê lết tấm thân tàn kiếm sống. Bao oan khiên đau đớn sau cuộc chiến tranh bao giờ mới không còn nữa ? Tại sao vậy ? Tôi thường hỏi tôi, nhưng tôi không biết trả lời câu hỏi nhức nhối này.

Trong chương trình đại nhạc hội do Trung tâm Asia tổ chức vừa qua tại Long Beach Convention Center, trực tiếp thu hình trong bộ đĩa Asia 66 “ Cánh hoa thời loạn “, trong phần nói về tác giả bài thơ “Để trả lời một câu hỏi “ nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc “ Kỷ vật cho em “ MC.Nam Lộc đã giới thiệu :

” Một trong những bài thơ rất nổi tiếng gây nhiều xúc đông vì diễn tả thật gần tâm trạng của người vào sinh ra tử trong giai đoạn khốc liệt nhất cuộc chiến tranh Việt Nam, đó là bài” Để trả lời một câu hỏi “ của thi sĩ Linh Phương. Linh Phương cũng là một quân nhân QLVNCH. Ông đã nhờ nhà báo Trần Dạ Từ phổ biến bài thơ này trên tờ báo Độc Lập năm 1970, để tặng người con gái tên Hương.
Sau đó, có nhiều lời đồn đại rằng tác giả đã tử trận ở Hạ Lào, rồi Kampuchea. Có người thì bảo tác giả hiện vẫn còn sống, khiến cho lý lịch của ông trở thành bí ẩn. Chúng tôi đã cố gắng liên lạc với tác giả đôi ba lần, nhưng vẫn chưa tìm ra được tông tích của người được mệnh danh là kẻ làm thơ nhưng không mang danh thi sĩ “.

Như lời anh Nam Lộc giới thiệu, chỉ sau này qua trung gian hồng nhan tri kỷ Dạ Hương bên Canada , tôi và anh Nam Lộc mới liên lạc được với nhau . Dạ Hương-người phụ nữ đã cùng tôi chia sẻ lúc tôi bị hoạn nạn vì mấy mươi bài thơ. Người phụ nữ thương yêu tôi cũng như tôi thương yêu người phụ nữ này, dù vì một nguyên nhân nào đó có một ngày chúng tôi không còn là của nhau, tôi cũng không bao giờ quên Dạ Hương , một món nợ ân tình mà tôi chưa trả được .
Anh Nam Lộc đã gửi cho tôi email mà trước đây Trung tâm Asia tìm cách liên lạc với tác giả nhưng không gặp .Email như sau :
Anh Linh Phương thân mến,
Có lẽ anh không biết tôi là ai vì cái địa chỉ email không quen với anh. Tôi xin được phép giới thiệu với anh tôi tên là Đinh Bá Cầu hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi hân hạnh được một người bạn thân cho tôi địa chỉ điện thư của anh và hôm nay tôi viết thư thăm và chúc anh nhiều sức khỏe tại quê nhà và tôi cũng nhân dịp này xin thỉnh ý anh một việc.
Thưa anh Linh Phương, tôi bên này cũng đã lên mạng đọc nhiều bài thơ của anh viết trước và sau 75 và có in thành tuyển tập. Thơ anh đã cho tôi một cảm nhận thật sâu sắc vì anh đã trải lòng mình với những tâm thức thời đại, cùng cất cánh bay vào xã hội hiện thực để nói lên những cảm nhận và tâm tình của mình qua thi tứ và thi từ rất mực của Anh. Nhưng bài Kỷ Vật Cho Em của anh hình như đã đi vào lòng người VN chúng ta như một vết hằn mà không bao giờ có thể xóa được vì đây là bài thơ của thế hệ, bài thơ của một giai đoạn lịch sử, chẳng khác nào bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan.
Cảm nhận được giá trị lịch sử của nó, hôm nay tôi xin phép anh cho tôi lấy bài thơ của anh mà ông Phạm Duy đã phổ nhạc có mặt trong cuốn CD mà tôi đang sắp phát hành tại Hoa Kỳ …( xin bỏ một đoạn ngắn )
Nếu anh không ngại xin anh viết cho tôi vài dòng về tiểu sử của anh nhất là binh chủng nào anh đã phục vụ trước 75 để được chính xác hơn, vì chúng tôi không dám võ đoán về thân thế và sự nghiệp của anh.
Khi phát hành xong cuốn CD này chúng tôi chắc chắn sẽ gửi anh một số tiền để nói lên ý thức tôn trọng bản quyền và sở hữu trí tuệ của Anh…( bỏ một đoạn )
.
Đinh Bá Cầu

Tôi rất cảm kích việc làm đứng đắn của Trung tâm Asia, tôn trọng những sáng tác của anh em văn nghệ sĩ. Khác hẳn với một số cá nhân ,trung tâm ca nhạc trong và ngoài nước thường hay “quên” những tác giả bài thơ phổ nhạc, thậm chí họ “ quên” luôn việc giới thiệu tác giả bài thơ .Tôi đã trả lời thư cho Trung tâm và riêng với anh Nam Lộc, một người tôi trân trọng. Trong một email, anh Nam Lộc viết:

“ Anh Linh Phương kính mến,
Tôi xúc động đến rơi lệ khi nhận được thư anh trả lời. Thương anh quá đỗi đi thôi. Biết làm gì để giúp nhau bây giờ! Thôi thì hãy an ủi nhau với tất cả tấm lòng, và sống tử tế với nhau những ngày còn lại trong cuộc đời. Dù muộn nhưng tôi đã cảm thấy thật là may mắn được quen biết anh. Xin hãy xem nhau là tri kỷ. Nếu cần bất cứ chuyện gì ở bên này bờ đại dương xin anh cứ email cho tôi, tôi xin hứa sẽ hết sức kín đáo và thận trọng để không xẩy ra chuyện làm phiền nhiễu đến cuộc sống vốn đã khó khăn của anh.

Chúng tôi và TT Asia sẽ dựa vào các tin tức anh gởi để "giao quà"! Và sẽ báo tin cho anh biết trước khi đến.
Chúc anh luôn bình an và vui khoẻ.
Thân quý,
Nam Lộc “.

Anh Dang Lũy cũng gửi cho tôi những câu thơ của anh khi biết tôi vẫn còn sống : Trong cuộc đời tôi biết có một thứ mà người ta sẻ chia với nhau cho hết những tận cùng của cảm xúc. Đó là tấm lòng của nghệ sĩ. Xin góp một chén rượu mừng vui cho cuộc gặp gỡ của các anh.


Nhận tin anh còn sống
Giọt nước mắt ngỡ ngàng
long lanh chén rượu mừng vui
Bên trời hồn tri kỷ
Người năm xưa lại về.
Lũy



Những tình cảm của các anh em trong trung tâm Asia khiến tôi vô cùng xúc động, xúc động trước tâm tình của người muôn năm cũ còn tràn đầy trong từng lời, từng ngôn ngữ cho nhau. Những người cùng thế hệ đã có một thời tuổi trẻ yêu không dám yêu, và đã lỡ yêu thì yêu vội vàng, sợ không kịp cho nhau tình yêu khi mà cuộc chiến tranh vẫn hiện diện trong từng ngóc ngách quê hương. Cũng như tình yêu của tôi và người xưa hơn 30 năm thất lạc giữa cuộc đao binh , biết được tin tức nhau thì gần hết cuộc đời. Biết được tin tức nhau khi một bên là ngày, một bên là đêm.

Qua những email của anh em ở Trung Tâm Asia làm tôi thật hạnh phúc vô cùng khi tình cảm của những người năm xưa vẫn còn dành cho tác giả bài thơ phổ nhạc Kỷ Vật Cho Em . Điều làm tôi xúc động nhất là email của anh Nam Lộc và ca sĩ Thanh Lan. Email “ Thanh Lan gửi lời thăm anh Linh Phương “Thanh Lan đã viết : “ Vừa thu hình bài Kỷ Vật Cho Em với Vũ Khanh. Cảm xúc theo từng lời thơ của anh đã viết. Xin cám ơn anh đã để lại cho khán giả những lời chân thành từ đáy tim, để Thanh Lan có được dịp may hát một bài hát tuyệt vời. Xin chúc anh được bình an.”.Tôi cảm động vô cùng với những gì anh Nam Lộc , ca sĩ Thanh Lan và Trung tâm Asia dành cho tôi. Tôi không bao giờ quên câu của Thanh Lan : “ Sẽ luôn luôn cầu nguyện cho anh Linh Phương được an vui “.
Không hiểu tôi nghĩ về bài thơ “Để trả lời một câu hỏi “ phổ nhạc thành “ Kỷ vật cho em “ của tôi có sai chăng ?
Thứ nhất. Tiền tác quyền một bài thơ phổ nhạc “ Kỷ Vật Cho Em “ mà nhạc sĩ Phạm Duy trả cho tôi vào đầu thập niên 70 là 50.000 đồng ( bằng 5 lượng vàng vào thời điểm đó ) , chỉ kém bài thơ phổ nhạc ‘ Màu tím hoa sim “ hay “Áo anh sứt chỉ đường tà “ của thi sĩ Hữu Loan , cuối năm 2004 công ty Viek VTB đã mua với giá 100 triệu ( trừ tiền thuế 10% ông còn 90 triệu ). Có lẽ ở Việt Nam duy nhất chỉ có 2 tác giả là thi sĩ Hữu Loan và tôi, có tiền tác quyền bài thơ cao hơn hết ( ? ).
Thứ hai.Tiền tác quyền trả cho tác giả bài thơ phổ nhạc “Để trả lời một câu hỏi “ tức “ Kỷ Vật Cho Em “ khi sử dụng của Trung tâm Asia là 4 triệu đồng ( tôi lấy con số chẳn ). Có lẽ tôi là tác giả duy nhất được trả tiến tác quyền cao nhất tại Việt Nam ( ? )

Nhưng điều ấy không quan trọng, nghĩ vui thôi . Cũng như tôi nghĩ mình may mắn có một bài thơ nổi tiếng, trả được một chút nợ cho cuộc đời cũng là điều sung sướng lắm rồi ., hạnh phúc lắm rồi. Và không phải riêng lĩnh vực ca nhạc còn hoài niệm “ Kỷ vật cho em “ ; trong lĩnh vực văn học vẫn không quên được “ Kỷ vật cho em “. Như bài viết trong cuốn sách “Trang sách và những giấc mơ bay - tập 1 “ do Thư Ấn Quán phát hành mới đây tại Hoa Kỳ . Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên đã “Đọc lại Kỷ Vật Cho Em “ ;

“ …Những tâm tình bùi ngùi như thế lại được âm nhạc tiếp sức, đẩy lên một bậc khiến giới công chúng càng yêu thích luồng gió mới kia nhiều hơn.
Rồi theo trào lưu thơ phổ nhạc ngày càng thịnh hành, bất ngờ công chúng lại được nghe trên đài phát thanh Sài Gòn, trong các phòng trà đô thành, các quán cà phê: “em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại...xin trả lời mai mốt anh về... anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa...” khiến mọi người ngơ ngác hỏi: Linh Phương, tác giả bài thơ, là ai vậy? Hắn trong bưng làm thơ địch vận hay trong nhóm phản chiến? Thần hồn và tứ trong bài thơ cứ bình-thản-nức-nở, bình-thản-nghẹn-ngào, coi như không có gì ghê gớm. Rồi khi cái tứ đó đi qua những cung bậc cao thấp của nhạc sĩ Phạm Duy, cộng với chất giọng của Thái Thanh lại càng run rẩy, thê thiết hơn. Những năm tháng ấy, kẻ viết bài này chỉ mới là anh sinh viên trong giảng đường, tình cờ đọc trên tờ nhật báo Độc Lập đã thoáng giật mình! Càng giật mình hơn khi được biết Linh Phương viết bài Kỷ vật cho em trong lúc đang hành quân ở Chương Thiện khoảng đầu năm 1970! Trong khi đó, những người bạn tôi đang có mặt trên khắp bốn vùng chiến thuật lại cười ha hả từ những kbc có con tem anh chiến binh bồng súng xông tới, phong bì lấm lem bùn đất, sờn rách: “... mình chắc mẩm hắn cũng là lính. Hắn mô tả tâm trạng, hoàn cảnh sao đúng hoàn cảnh tụi mình quá trời. Mai mốt tụi mình có về trên đôi nạng gỗ có về hòm gỗ cài hoa hay trên trực thăng sơn màu tang trắng... thì các cậu chớ có ngạc nhiên, chớ có buồn! Đời trai chinh chiến mấy thằng sống sót trở về?”. Mấy câu ngắn ngủn kia mãi ám ảnh tôi. Ám ảnh bởi vẻ lạc quan, coi sống chết như chuyện có không của người bạn. Mà hắn đâu để mắt tới Ngũ uẩn giai không, hắn đâu biết gì về tâm kinh đâu ảnh hưởng gì về triết học Phật giáo? Chẳng qua khi đối mặt quá nhiều với cái chết, luôn rình rập bên cạnh, không báo trước thì con người ta chẳng còn buồn để ý đến nó? Cứ chờ đón nó một cách thản nhiên như trong bài thơ Kỷ vật cho em của Linh Phương.
Vào độ tuổi ra trận mạc ấy, hẳn ai cũng có người yêu, chí ít cũng em gái hậu phương, thản hoặc một Dạ Lan từ trời cao thầm thì, chia sẻ với các anh mỗi đêm. Ấy vậy nhưng khi em của Linh Phương hỏi: Em hỏi anh bao giờ trở lại thì nhà thơ cứ thẳng đuột trả lời mai mốt anh về, có thể bằng nhiều cách về khác nhau:



...Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca...
...Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt...
...Mai anh về trên đôi nạng gỗ
Bại tướng về làm gã cụt chân...


Về bằng con đường nào thì thân thể thế hệ các anh không còn nguyên vẹn như lúc ra đi. Họ đã chắc chắn như vậy, nên chi cứ tạo một tâm thế trong những tình huống khắc nghiệt để em chuẩn bị đón nhận những bất toại trong cuộc sống chỉ có khói lửa trước mặt!...”

Sau khi xem xong DVD – Asia 66, có nhiều cô gọi điện thoại cho tôi nói : “ Em đã coi nhiều lần, lần nào cũng chảy nước mắt vì Kỷ Vật Cho Em, nhất là hình ảnh những người lính chào chiếc hòm gỗ phủ cờ và lúc ca sĩ Thanh Lan ôm quan tài nức nở “ ; “ Coi Asia 66 , em rất hãnh diện vì anh “; “ Trong Cánh Hoa Thời Loạn có 2 bản nhạc phải khóc là Áo anh sứt chỉ đường tà và Kỷ vật cho em “.Và Lữ Anh Thư cũng đã viết trên website cothommagazine.com :


"… Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
…Anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về bại tướng cụt chân
Em ngại ngùng dạo phố mùa Xuân
Bên người yêu tật nguyền, chai đá …”


Đó là đôi lời trong bài hát Kỷ Vật Cho Em, rất phổ biến trong những năm đầu thập niên 1970 tại miền Nam Việt Nam. Ngày đó, ở tuổi mới lớn, tôi cũng như mọi cô nữ sinh ở Sài Gòn thường hát bài này với bao nỗi xót xa cho những người lính. Những xót xa ngày đó chỉ là những xót xa của một đứa trẻ cho một người bị mất đi một phần thân thể vì bom đạn của chiến tranh, hay xót xa lãng mạn cho một cuộc tình thời chinh chiến.

Tôi hạnh phúc thật hạnh phúc, còn điều hạnh phúc nữa là thỉnh thoảng có người ái mộ , tôi không quen biết,gọi điện thoại và hát cho tôi nghe Kỷ Vật Cho Em. Cách đây ba tuần, một cô tên Thùy Trang ở Sài Gòn đã hát cho tôi nghe hết bản “ Kỷ vật cho em “ trên điện thoại di động.Tôi thường có những bất ngờ như thế, và tôi vô cùng xúc động trước tấm lòng người còn yêu mến “ Kỷ vật cho em “, dù đã 40 năm trôi qua.




( còn nữa )

Thursday, December 9, 2010

Hồi Ký Linh Phương - Kỳ 39 -

- Kỳ 39 -


Năm 2002, tôi lại thất nghiệp . Tất nhiên kinh tế eo hẹp hơn mặc dù tôi vẫn làm thơ gửi báo lấy tiền nhuận bút. Nhưng tiền nhuận bút cũng chẳng là bao, bởi ít có ai sống nhờ vào nhuận bút thơ cả.Hình như vào khoảng năm 2003, 2004 gì đó , tôi được kết nạp ( sau vài lần đắn đo không ý kiến khi người ta mời tôi ) vào Hội văn học nghệ thuật Tỉnh. Vài tuần sau, tôi được phân công biên tập thơ cho tạp chí C.A.C của Hội.Và cũng chỉ biên tập một vài số tạp chí thì tôi bị “ nạn “ vì một câu thơ trong bài thơ của tôi.. Nội dung bài thơ nói về người lính khi trở về cụt hết một cánh tay.


Bỏ lại chiến trường một cánh tay
Cha mang ba lô về nhà
Ngực đeo huy chương đủ loại

Giã biệt bao cánh rừng rực cháy
Bao cánh rừng đạn bom
Cha nghiêng người xuống bế con
Bằng cánh tay còn lại

Trời lúc đó nhiều mây
Gió phất phơ vạt áo trống không như lá cờ Tố quốc
Đang bay… đang bay
Mẹ mừng vui ôm cha
Bật khóc

Con lớn lên từ hơi thở nồng nàn của đất
Từ dòng sữa ngọt ngào của mẹ
Và lời ru êm đềm của sông
Từ mùi khói đốt đồng
Từ mồ hôi cha hòa cùng hạt thóc
Từ giấc ngủ nhọc nhằn cha còn vung tay gặt
Lúa chín vàng
Trong giấc mơ xanh

Cảm ơn cha người chiến binh
Đã dạy con thương yêu cuộc đời-thương yêu đất nước
Để mai này nối bước
Con vào lính như cha

( Khi người lính trở về )


Người thương binh bế đứa con bằng một cánh tay còn nguyên vẹn, còn cánh tay kia chỉ có ống tay áo trống không bay phất phơ trước gió. Đại ý câu thơ là vậy , nhưng có người suy diễn rằng : lá cờ Tổ quốc là cờ đỏ sao vàng, chứ sao trống không được. Thế là tôi phải tự kiểm điểm trước Ban chấp hành Hội và tự rút khỏi ban biên tập tạp chí ,làm một hội viên bình thường.





Năm 2005, tôi tham dự trại sáng tác văn học tại Vũng Tàu ( thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu) , cũng trong năm này tôi dự trại sáng tác văn học do Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật trung ương tổ chức tại Bình An – Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang. Ở trại sáng tác tôi gặp nhà văn Trần Thôi – nhà văn Hồ Tĩnh Tâm Hội VHNT Vĩnh Long ; nhà văn Nguyễn Thị Thu Hiền – Hà Nội , nhạc sĩ Hoàng Nhạc Đô - Cần Thơ ( con của nhạc sĩ Hoàng Trọng )…Tính tôi ít nói, không thích ồn ào nên thường không tham dự rượu chè với anh em văn nghệ sĩ. Vì thế, khi “ Hội Ngộ Văn Chương “ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đề cập đến tôi chuyện Kỷ Vật Cho Em thì nhà văn Hồ Tĩnh Tâm đã viết cho nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo : “Anh kiếm đâu ra bài viết của Linh Phương vậy? Lại còn cả hình nữa. Hồi đó trông Linh Phương khác với bây giờ quá. Hôm gặp nhau ở Kiên Lương Kiên Giang, em thấy Linh Phương như cư sĩ ở ẩn; lặng lẽ, cô độc, lúc nào cũng cứ như đang chìm trong suy tưởng gì đấy. Đến bữa cơm, tụi em thường ồn ào bia rượu, còn Linh Phương thì vẫn cứ trầm mặc đắm chìm trong thế giới nào.
Một lần em với cái Hiền, cái Nga tha thẩn ra bãi biển ngắm trăng, con dế của em nó gáy báo có tin nhắn, mở ra thì nhận đươc 4 câu thơ của Linh Phương. Thơ tình. Hai đứa chúng nó đọc xong thì a cả lên: Ông anh có người tình làm thơ hay quá. Em liền bịa ra Linh Phương là Linh Phượng. Thế là hai đứa nó cứ khảo Linh Phượng là ai. Chừng tụi nó biết Linh Phương, tụi nó ngạc nhiên: Cái ông còm nhom tóc tai dài thòn này mà thơ hay thế à?”






Tôi nhớ một kỷ niệm vui trong chuyến hành hương các tỉnh miền tây do Xuân Hương điều hành một website bên Mỹ nhân chuyến về Việt Nam chơi đã tổ chức cho anh em văn nghệ sĩ Sài Gòn và anh em văn nghệ sĩ các tỉnh đồng bằng sông Cửu long đi chơi. Đến thành phố Long Xuyên ( thuộc tỉnh An Giang ) sau một buổi tiệc tại nhà hàng với anh em Hội văn học nghệ thuật An Giang gồm : nhà thơ Trịnh Bửu Hoài – nhà thơ Hồ Thanh Điền … Đoàn văn nghệ sĩ ngủ đêm ở khách sạn An Long.Tôi , nhà thơ Vũ Trọng Quang – nhà văn Vũ Hồng ( Bến Tre ) – nhà văn Ngô Khắc Tài ( An Giang ) vẫn tiếp tục ngồi trước khách sạn lai rai cho tới gần 1 giờ sáng mới vào ngủ .Phòng tôi ngủ gồm 4 người là: các nhà thơ Vũ Trọng Quang- Phù Sa Lộc- Mặc Tuyền và tôi.
Có lẽ do uống rượu nhiều, nên ai ngủ say như chết. Mới 5 giờ sáng, chúng tôi giật mình thức giấc khi nhà thơ Phù Sa Lộc la toáng lên : “ Chết rồi , bị trộm mấy ông ơi , cái quần tôi mất rồi “ .Tôi , Vũ Trọng Quang, Mặc Tuyền nhìn lên chỗ móc quần của mình. Tất cả quần của chúng tôi đều được “ diệu thủ “ nào đó mượn tạm không chừa một ai. Nhà thơ Hồ Thanh Điền Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật An Giang là thổ địa nơi đây đã phát giác đống quần của chúng tôi được nhét dưới hốc cầu thanh lên xuống. Tất cả tiền bạc, điện thoại đi động của các nhà thơ đều không còn, chỉ duy nhất có tôi là điện thoại còn nằm trong túi quần. Nhà thơ Ngô Thị Hạnh nói vui : “Điện thoại của anh Phương như có linh hồn , lúc ở Sài Gòn làm rớt xuống đường không hay vẫn có người chạy theo trả lại. Bây giờ bị trộm, điện thoại vẫn không mất “.Đúng như Ngô Thị Hạnh nói, điện thoại của tôi nhiều lần rớt nhưng không mất, không hư. Mặc dù điện thoại đã hơn 6 năm rồi , không còn ai xài đời điện thoại này nữa ,nhưng nó chính là người bạn thủy chung để tôi liên lạc với bạn bè, người thân khắp mọi miền đất nước.
Chuyện bị trộm đã trở thành giai thoại vui “ Bốn nhà thơ mất quần “đăng trên “ Shop văn nghệ “ của báo Thanh Niên cũng như một vài website trong và ngoài nước.Mới đây, nhà thơ Phù Sa Lộc trong chuyến đi cùng nhà thơ nữ Trúc Linh Lan ( phu nhân nhà thơ quá cố Võ Minh Đường ) - nhà văn Ngọc Tuyết và anh Tôn Thất Lang - Nhật Hồng trong Hội văn học dân gian Cần Thơ đến Châu Đốc, qua Hà Tiên ghé Rạch Giá thăm tôi, Phù Sa Lộc còn nhắc đến “ tai nạn “ bốn nhà thơ mất quần ngày xưa, không nín cười được.
Tháng 11 năm 2008, tôi bị “ tai nạn “ mấy chục bài thơ viết về những trăn trở của một con người chế độ cũ .Người ta cho rằng mấy chục bài thơ này mang nội dung phản động,. Trong mấy tháng trời, tôi bị kiểm điểm trong Hội VHNT , rồi làm bản tự kiểm nêu những sai trái của mình nộp lên lãnh đạo. Cuối cùng, tôi đã ký biên bản xác nhận mấy chục bài thơ của tôi cho Phòng PA.25 .Tôi được khoan hồng không phải bị giam giữ cải tạo. Bạn bè xa lánh vì ai cũng sợ liên lụy khi tiếp xúc , có những người quen biết lại nhìn tôi bằng những ánh mắt ghẻ lạnh.Tôi cũng không oán trách một ai, âu đó là lẽ thường tình trong cuộc sống và cuộc đời vậy.


( còn nữa )

Friday, December 3, 2010

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 38 -

- Kỳ 38 -


Tôi bắt đầu làm thơ lại với mục đích kiếm tiền lo cho cuộc sống hàng ngày. Tôi cố gắng viết thật nhiều , nhưng không dùng tên Linh Phương. Thoạt tiên, tờ Văn nghệ Minh Hải rồi các tờ Kiên Giang, Hậu Giang ( bây giờ là Cần Thơ ).Sau đó thì hầu như các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Sài Gòn rồi các tỉnh khác với tên Linh Phương.
Kiếm tiền nhuận bút vừa để tiêu xài, vừa tiện tặn để dành chút tiền phòng khi bạn bè, anh em văn nghệ Sài Gòn có tin vui, tin buồn còn có chút tiền chia vui, chia buồn. Hoặc nhiều khi nhớ bạn thì có tiền đi xe lên thăm vài ba ngày cho đỡ nhớ. Lúc này, tôi đã về Rạch Giá sống một quãng đời chùm gởi nương tựa thân cây.
Khoảng năm 1994 , tôi phụ trách biên tập thơ, văn “ Trang Viết Học Trò “ cho tờ bào tỉnh.Ngoài thơ văn , còn có chuyên mục “ Đọc thơ các em “ và “ Vườn Ô Mai “ giải đáp thắc mắc về tình bạn, tình yêu cho tuổi mới lớn với bút hiệu Cỏ Non. “ Vườn Ô Mai “ rất được tuổi mới lớn yêu thích, không chỉ tuổi mới lớn không mà tuổi người lớn cũng ưa thích cách trả lời dí dỏm của tôi.

Trong những năm này , Nguyên Hương cô giáo 20 tuổi ở một huyện kế cận thương yêu tôi, đó là năm 1996.Trong thư ngày 16.10.1996 Nguyên Hương viết : “…Chiều hôm qua em nghĩ thế nào cũng có thư anh. Thế là đi dạy về, chưa kịp thay đồ dựng vội chiếc xe, em chạy sang văn phòng và thấy một bì thư quen thuộc….Anh không thương em, anh chẳng thương em tí nào cả ? Trong khi em nhớ anh ngày đêm, mong những nét chữ của anh như mong chờ hạnh phúc. Em gọi tên anh ở mọi lúc mọi nơi. Buổi sáng thức dậy người đầu tiên em nghĩ đến là anh, trong giờ dạy em cũng nghĩ về anh, đi chơi cùng bạn bè, mặc dù không có xác thể anh bên cạnh nhưng lại cũng là anh chiếm ưu thế nhất trong đầu em……Khi trái tim em nói tiếng “ yêu anh “ thì em đã nghĩ đến những trái ngang và ngăn cách. Nhưng con tim em là một con tim cuồng si. Đúng rồi ! Nó sống vì một tình cảm và cũng có thể chết vì một tình cảm thiêng liêng….Em giận anh, em ghét anh lắm, anh có biết không ?... Em yêu anh- em yêu anh. Anh có nghe thấy không ? Và anh, hãy một lần nói tiếng “ yêu em “ từ tận cùng trái tim anh, để em được mỉm cười mãn nguyện. Nói đi anh, em chỉ cần có thế thôi, vậy là quá đủ cho em rồi. Em sẽ gọi tên anh mãi mãi, khắc vào tim mình hai tiếng “ LP “…Anh mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong trái tim em. EM YÊU ANH …”


Thư ngày 19.10.1996 : “Anh yêu của em ! Anh có biết rằng vào đúng 10 h 35’ trưa ngày hôm nay, cách đây 20 năm về trước đã có một hình hài xuất hiện trên cõi đời này… để 20 năm sau, bé gái ấy trở thành thiếu nữ- môt thiếu nữ không hương trời sắc nước gì cho lắm, nhưng cũng đủ để cho một người thương nhớ… Anh yêu ạ ! Riêng anh phải cám ơn hay cả hai chúng ta đều phải cám ơn ngày hôm nay của 20 năm về trước ? Từ ngày đó để hôm nay anh có một Nguyên Hương hết lòng thương yêu anh và mặt trời nhỏ bé đã xuất hiện trong bầu trời lồng ngực anh…Rồi em ước : Giá như…giá như…bây giờ em có anh. Giá như anh sẽ làm điểm tựa cho em trong lúc này. Giá như em được khóc trong vòng tay anh, những giọt nước mắt sung sướng và hạnh phúc. Em nhớ anh lắm, anh có biết không ? Tối nay em thấy mỏi mệt lắm, chân tay em bủn rủn nhưng em vẫn ngồi viết cho anh. Anh đừng giận em đã không biết nghe lời anh, phải giữ gìn sức khỏe. Đêm nay em sẽ không vâng lời anh được đâu, vì không được ngồi viết cho anh, em sẽ cảm thấy khó chịu hơn. Với lại, em không muốn để anh phải chờ thư lâu, anh có hiểu không ? Nguyên Hương của anh luôn mong muốn anh vui mà. Chỉ cần anh vui thì dù có mỏi mệt đến mấy em cũng quên hết để làm tất cả những gì có thể mang niềm vui đến cho anh… LP ơi ! Em tin anh, rất tin anh, em tin trái tim anh là của em, tâm hồn anh là của em; và LP sẽ chẳng có ngày bỏ Nguyên Hương bơ vơ trong cuộc đời nghiệt ngã này…Em dừng bút nha anh. Anh bảo em phải vâng lời anh. Thế còn anh ? Anh có thể nghe lời cô bé con của anh không ? Anh cũng phải giữ gìn sức khỏe và thật sự hạnh phúc khi nghĩ về em nhé . Anh có buồn em không ? Đừng giận mà , em sẽ đền cho anh tất cả. Em yêu anh .Em của anh . Nguyên Hương

Cuối cùng, tôi và Nguyên.Hương chia tay- em lấy chồng, nhưng cuộc sống không được hạnh phúc, do người chồng quá ghen tương về quá khứ của vợ. Vài năm sau, có một cô học trò lớp 12 yêu tôi cũng tên Hương, nhưng là Mai.Hương. Cuộc tình đầy trắc trở bởi mẹ và chị của em chận tất cả thư từ của tôi gửi cho em. Mẹ em đã gửi cho tôi một lá thư yêu cầu tôi chia tay với em, nhưng em vẫn tìm cách liên lạc với tôi. Thư ngày 29.06.1999 em đã viết cho tôi :
“…Anh thương yêu nhất trong cuộc đời em ! Em viết thư cho anh ngoài vườn nhà em, khi mà bóng chiều đã gần như tắt hẳn. Em nhớ anh, anh biết không ? Chưa bao giờ em thấy em yêu anh đến vậy…Anh yêu dấu ! Phải chăng anh đang nghĩ đến cái ngày mà chúng ta sẽ trở thành những người cách xa vời vợi ? Phải chăng trong lòng anh, em chỉ là một cái gì đó, rồi sẽ nhạt nhòa ?
Em từng sống trong hoài nghi và em biết thế nào là những đau xót mà nó mang đến. Lúc em không còn ghi thư cho anh, em thường đọc báo KG lắm. Và mỗi lần bắt gặp một bóng hình nào đó trong tác phẩm của anh, em đã ….Anh biết cảm giác của em lúc đó như thế nào không ? Em cảm thấy mình bị bỏ rơi, em nghĩ rằng trong lòng anh lúc đó không hề có bóng hình “ Mít ướ “t- em xót xa cảm thấy anh quên em. Và mỗi lần như vậy, nỗi hoài nghi trong lòng em lại nhen nhúm, nó làm cho em buồn tủi và giận hờn, xót xa đau đớn nữa.
Em đã không đúng phải không anh ? Sau những lần như vậy, em thấy mình thật có lỗi với anh. Em đã thầm xin lỗi anh, không biết anh có nghe thấy không ? Mà dù lúc đó em có nghĩ thế nào, thì em cũng vẫn yêu anh, trái tim em vẫn là của anh. Và mãi mãi nó là của riêng anh. Anh nói cho em nghe đi, những gì anh nghĩ, anh viết ra bắt nguồn từ em hay từ hoàn cảnh ? Anh Phương ơi, một trái tim non trẻ không có nghĩa là một trái tim thiếu chín chắn, thủy chung, phải không anh ? Em yêu anh không phải “ yêu chỉ để mà yêu “ mà em còn biết chờ đợi, hy vọng và sống vì người em yêu nữa… Anh thương yêu ! Hàng đêm em vẫn chắp tay cầu xin hạnh phuc sẽ trở về cùng anh, để anh được sống với những gì lẽ ra anh phải có.
Những lần được thư anh, em cứ thẫn thờ, trằn trọc, bâng khuâng mãi… Hạnh phúc với em là điều quá bình thường với người khác. Em sẽ hạnh phúc biết bao nếu chiều nay em có anh bên cạnh, để được thì thầm bên tai anh lời yêu thương nồng nàn thiết tha trong trái tim em, để vơi chút nhớ nhung trong lòng nhỏ. Em sẽ hứa cùng anh, lời hứa của một trái tim yêu anh tha thiết : Em yêu anh hết đời này, kiếp này sang kiếp khác. Em mãi mãi là của anh. Và trọn đời, anh Phương ơi ! Em chỉ cho một người duy nhất gọi em là “ Mit ướt “. Em chỉ là “ Mít ướt “ của riêng anh…. Trời đã tối rồi. Em dừng bút, để không thôi mắt em “ có vấn đề “ thì anh Phương của em sẽ không vui . nhớ anh tha thiết . Hôn anh. Nhỏ của anh
. Mai Hương “.

Rồi em vào đại học Cần Thơ, tôi và em chia tay nhau vì biết bao hệ lụy trong cuộc tình chênh lệch tuổi tác này.Em không thể vượt qua trước sự nghiệt ngã của mọi người , và trước những áp lực của gia đình .Mà tôi , thì tôi không thể nào không trả em về với mẹ em- người đã viết một lá thư với tư cách một người mẹ thương yêu con gái của mình .
Những mối tình thoáng qua như cơn mưa rào, như vạt mây cuối trời , như nước chảy dưới cầu , như bèo giạt hoa trôi .Nhưng dẫu sao những bóng hồng đi qua cuộc đời tôi vẫn để lại một chút gì đó thương yêu , đã làm tươi hồng một trái tim thơ giữa những năm tháng lận đận , lao đao.Những người con gái ngày xưa đã hết rồi thời xuân sắc, đã có một gia đình hạnh phúc bên chồng bên con. Không biết, có khi nào đó bất chợt nhớ lại ngày xửa, ngày xưa có một người mình thương yêu chăng ?
Có lẽ tôi đa mang nhiều quá chữ “ tình “ và có lẽ như tôi đã nói – tôi là người đàn ông không chung thủy với người tôi thương yêu.Nhưng điều duy nhất là tôi chưa hề quay lưng, không biết quay lưng với bất cứ bóng hồng nào. Hãy để cho người phụ ta, chứ ta chưa hề phụ người.

Tôi có nhiều mối tình, nhưng tôi chỉ nợ một mối tình của Thu Hồng, mối tình mà suốt hơn 30 năm tôi chưa quên, không hề quên và suốt cuộc đời còn lại tôi cũng không sao trả được .Hơn 30 năm không được nhìn nhau, không ngồi bên nhau, không nói được lời thương yêu, kể từ lúc tôi rời phòng CTCT ra đi . Muốn khóc mà không khóc được sau ngần ấy thời gian cách xa. Ai trả cho chúng tôi những năm tháng thanh xuân với bao ước mơ cháy lòng khi yêu nhau ? Ai trả lại em ngày 20 tuổi mộng đầy ắp trong lòng của một tiểu thư đài các chưa lấm bụi đời ? Ai trả lại tôi thuở 24 bạc màu sương gió trên vai áo trận, kiêu ngạo đi vào trái tim em ? Ai trả lại cho chúng tôi những gắn bó , những thương yêu mà chúng tôi đã mất hơn 30 năm trời thất lạc giữa cuộc đao binh ?

Tôi còn một mối tình mà có lẽ tôi sắp nợ , đó là Dạ Hương. Chỉ với bốn năm thôi, bốn năm thời gian không dài cũng không ngắn trong tình yêu xa vời vợi : ngày bên này- đêm bên kia. Tôi biết , tôi không thể nào trọn vẹn đôi bề chữ “ tình “, nếu như hai người hồng nhan tri kỷ của tôi không nhìn về một phía. Phía trái tim thơ mỏng manh nhiều vết xước của cuộc sống, cuộc đời qua bao thăng trầm đi hết cuộc chiến tranh của ngày hôm qua.Tôi có lỗi , thật nhiều lỗi với tất cả những bóng hồng thời trai trẻ, cũng như khi xế bóng .Tôi thật vô cùng hạnh phúc vì đến giờ phút này , tôi còn có hai người hồng nhan tri kỷ chia sẻ cùng tôi những buồn vui của kiếp làm người.Tôi hy vọng hạnh phúc này sẽ mãi mãi nguyên vẹn cho đến ngày tôi nhắm mắt.Tôi hy vọng vì tôi rất sợ thất vọng khi tuổi mỗi người chúng tôi đâu còn mười tám, hai mươi.


( Còn nữa )