Wednesday, December 15, 2010

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 40 -

-Kỳ 40 -


Bài thơ “Để trả lời một câu hỏi “ phổ thành ca khúc “ Kỷ vật cho em “đã gần nửa thế kỷ trôi qua. Cuộc chiến tranh lùi dần vào quá khứ , người Việt Nam ở hải ngoại hay quê nhà vẫn không quên một bản nhạc nổi tiếng trong năm tháng đạn bom .Tuổi trẻ ngày xưa không còn nữa, những người cầm súng tóc đều lấm tấm điểm hoa sương, hoặc đã nằm xuống ở hải ngoại hay quê nhà. Nhưng họ vẫn nhớ như in “ Kỷ vật cho em “ ,vì đó là hình ảnh một thời điêu linh mà họ chen vai gánh chịu. Những người may mắn ra đi trót lọt xứ lạ quê người có cuộc sống phồn vinh; những người ở lại nuốt lệ vào lòng với những nhọc nhằn nơi quê hương của mình .Những người còn nguyên vẹn hình hài dù sao cũng đỡ hơn những anh em mang thương tích tật nguyền.Một phần thân thể gửi cho mảnh đất đầy xương máu, một phần thân thể còn lại lê lết tấm thân tàn kiếm sống. Bao oan khiên đau đớn sau cuộc chiến tranh bao giờ mới không còn nữa ? Tại sao vậy ? Tôi thường hỏi tôi, nhưng tôi không biết trả lời câu hỏi nhức nhối này.

Trong chương trình đại nhạc hội do Trung tâm Asia tổ chức vừa qua tại Long Beach Convention Center, trực tiếp thu hình trong bộ đĩa Asia 66 “ Cánh hoa thời loạn “, trong phần nói về tác giả bài thơ “Để trả lời một câu hỏi “ nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc “ Kỷ vật cho em “ MC.Nam Lộc đã giới thiệu :

” Một trong những bài thơ rất nổi tiếng gây nhiều xúc đông vì diễn tả thật gần tâm trạng của người vào sinh ra tử trong giai đoạn khốc liệt nhất cuộc chiến tranh Việt Nam, đó là bài” Để trả lời một câu hỏi “ của thi sĩ Linh Phương. Linh Phương cũng là một quân nhân QLVNCH. Ông đã nhờ nhà báo Trần Dạ Từ phổ biến bài thơ này trên tờ báo Độc Lập năm 1970, để tặng người con gái tên Hương.
Sau đó, có nhiều lời đồn đại rằng tác giả đã tử trận ở Hạ Lào, rồi Kampuchea. Có người thì bảo tác giả hiện vẫn còn sống, khiến cho lý lịch của ông trở thành bí ẩn. Chúng tôi đã cố gắng liên lạc với tác giả đôi ba lần, nhưng vẫn chưa tìm ra được tông tích của người được mệnh danh là kẻ làm thơ nhưng không mang danh thi sĩ “.

Như lời anh Nam Lộc giới thiệu, chỉ sau này qua trung gian hồng nhan tri kỷ Dạ Hương bên Canada , tôi và anh Nam Lộc mới liên lạc được với nhau . Dạ Hương-người phụ nữ đã cùng tôi chia sẻ lúc tôi bị hoạn nạn vì mấy mươi bài thơ. Người phụ nữ thương yêu tôi cũng như tôi thương yêu người phụ nữ này, dù vì một nguyên nhân nào đó có một ngày chúng tôi không còn là của nhau, tôi cũng không bao giờ quên Dạ Hương , một món nợ ân tình mà tôi chưa trả được .
Anh Nam Lộc đã gửi cho tôi email mà trước đây Trung tâm Asia tìm cách liên lạc với tác giả nhưng không gặp .Email như sau :
Anh Linh Phương thân mến,
Có lẽ anh không biết tôi là ai vì cái địa chỉ email không quen với anh. Tôi xin được phép giới thiệu với anh tôi tên là Đinh Bá Cầu hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi hân hạnh được một người bạn thân cho tôi địa chỉ điện thư của anh và hôm nay tôi viết thư thăm và chúc anh nhiều sức khỏe tại quê nhà và tôi cũng nhân dịp này xin thỉnh ý anh một việc.
Thưa anh Linh Phương, tôi bên này cũng đã lên mạng đọc nhiều bài thơ của anh viết trước và sau 75 và có in thành tuyển tập. Thơ anh đã cho tôi một cảm nhận thật sâu sắc vì anh đã trải lòng mình với những tâm thức thời đại, cùng cất cánh bay vào xã hội hiện thực để nói lên những cảm nhận và tâm tình của mình qua thi tứ và thi từ rất mực của Anh. Nhưng bài Kỷ Vật Cho Em của anh hình như đã đi vào lòng người VN chúng ta như một vết hằn mà không bao giờ có thể xóa được vì đây là bài thơ của thế hệ, bài thơ của một giai đoạn lịch sử, chẳng khác nào bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan.
Cảm nhận được giá trị lịch sử của nó, hôm nay tôi xin phép anh cho tôi lấy bài thơ của anh mà ông Phạm Duy đã phổ nhạc có mặt trong cuốn CD mà tôi đang sắp phát hành tại Hoa Kỳ …( xin bỏ một đoạn ngắn )
Nếu anh không ngại xin anh viết cho tôi vài dòng về tiểu sử của anh nhất là binh chủng nào anh đã phục vụ trước 75 để được chính xác hơn, vì chúng tôi không dám võ đoán về thân thế và sự nghiệp của anh.
Khi phát hành xong cuốn CD này chúng tôi chắc chắn sẽ gửi anh một số tiền để nói lên ý thức tôn trọng bản quyền và sở hữu trí tuệ của Anh…( bỏ một đoạn )
.
Đinh Bá Cầu

Tôi rất cảm kích việc làm đứng đắn của Trung tâm Asia, tôn trọng những sáng tác của anh em văn nghệ sĩ. Khác hẳn với một số cá nhân ,trung tâm ca nhạc trong và ngoài nước thường hay “quên” những tác giả bài thơ phổ nhạc, thậm chí họ “ quên” luôn việc giới thiệu tác giả bài thơ .Tôi đã trả lời thư cho Trung tâm và riêng với anh Nam Lộc, một người tôi trân trọng. Trong một email, anh Nam Lộc viết:

“ Anh Linh Phương kính mến,
Tôi xúc động đến rơi lệ khi nhận được thư anh trả lời. Thương anh quá đỗi đi thôi. Biết làm gì để giúp nhau bây giờ! Thôi thì hãy an ủi nhau với tất cả tấm lòng, và sống tử tế với nhau những ngày còn lại trong cuộc đời. Dù muộn nhưng tôi đã cảm thấy thật là may mắn được quen biết anh. Xin hãy xem nhau là tri kỷ. Nếu cần bất cứ chuyện gì ở bên này bờ đại dương xin anh cứ email cho tôi, tôi xin hứa sẽ hết sức kín đáo và thận trọng để không xẩy ra chuyện làm phiền nhiễu đến cuộc sống vốn đã khó khăn của anh.

Chúng tôi và TT Asia sẽ dựa vào các tin tức anh gởi để "giao quà"! Và sẽ báo tin cho anh biết trước khi đến.
Chúc anh luôn bình an và vui khoẻ.
Thân quý,
Nam Lộc “.

Anh Dang Lũy cũng gửi cho tôi những câu thơ của anh khi biết tôi vẫn còn sống : Trong cuộc đời tôi biết có một thứ mà người ta sẻ chia với nhau cho hết những tận cùng của cảm xúc. Đó là tấm lòng của nghệ sĩ. Xin góp một chén rượu mừng vui cho cuộc gặp gỡ của các anh.


Nhận tin anh còn sống
Giọt nước mắt ngỡ ngàng
long lanh chén rượu mừng vui
Bên trời hồn tri kỷ
Người năm xưa lại về.
Lũy



Những tình cảm của các anh em trong trung tâm Asia khiến tôi vô cùng xúc động, xúc động trước tâm tình của người muôn năm cũ còn tràn đầy trong từng lời, từng ngôn ngữ cho nhau. Những người cùng thế hệ đã có một thời tuổi trẻ yêu không dám yêu, và đã lỡ yêu thì yêu vội vàng, sợ không kịp cho nhau tình yêu khi mà cuộc chiến tranh vẫn hiện diện trong từng ngóc ngách quê hương. Cũng như tình yêu của tôi và người xưa hơn 30 năm thất lạc giữa cuộc đao binh , biết được tin tức nhau thì gần hết cuộc đời. Biết được tin tức nhau khi một bên là ngày, một bên là đêm.

Qua những email của anh em ở Trung Tâm Asia làm tôi thật hạnh phúc vô cùng khi tình cảm của những người năm xưa vẫn còn dành cho tác giả bài thơ phổ nhạc Kỷ Vật Cho Em . Điều làm tôi xúc động nhất là email của anh Nam Lộc và ca sĩ Thanh Lan. Email “ Thanh Lan gửi lời thăm anh Linh Phương “Thanh Lan đã viết : “ Vừa thu hình bài Kỷ Vật Cho Em với Vũ Khanh. Cảm xúc theo từng lời thơ của anh đã viết. Xin cám ơn anh đã để lại cho khán giả những lời chân thành từ đáy tim, để Thanh Lan có được dịp may hát một bài hát tuyệt vời. Xin chúc anh được bình an.”.Tôi cảm động vô cùng với những gì anh Nam Lộc , ca sĩ Thanh Lan và Trung tâm Asia dành cho tôi. Tôi không bao giờ quên câu của Thanh Lan : “ Sẽ luôn luôn cầu nguyện cho anh Linh Phương được an vui “.
Không hiểu tôi nghĩ về bài thơ “Để trả lời một câu hỏi “ phổ nhạc thành “ Kỷ vật cho em “ của tôi có sai chăng ?
Thứ nhất. Tiền tác quyền một bài thơ phổ nhạc “ Kỷ Vật Cho Em “ mà nhạc sĩ Phạm Duy trả cho tôi vào đầu thập niên 70 là 50.000 đồng ( bằng 5 lượng vàng vào thời điểm đó ) , chỉ kém bài thơ phổ nhạc ‘ Màu tím hoa sim “ hay “Áo anh sứt chỉ đường tà “ của thi sĩ Hữu Loan , cuối năm 2004 công ty Viek VTB đã mua với giá 100 triệu ( trừ tiền thuế 10% ông còn 90 triệu ). Có lẽ ở Việt Nam duy nhất chỉ có 2 tác giả là thi sĩ Hữu Loan và tôi, có tiền tác quyền bài thơ cao hơn hết ( ? ).
Thứ hai.Tiền tác quyền trả cho tác giả bài thơ phổ nhạc “Để trả lời một câu hỏi “ tức “ Kỷ Vật Cho Em “ khi sử dụng của Trung tâm Asia là 4 triệu đồng ( tôi lấy con số chẳn ). Có lẽ tôi là tác giả duy nhất được trả tiến tác quyền cao nhất tại Việt Nam ( ? )

Nhưng điều ấy không quan trọng, nghĩ vui thôi . Cũng như tôi nghĩ mình may mắn có một bài thơ nổi tiếng, trả được một chút nợ cho cuộc đời cũng là điều sung sướng lắm rồi ., hạnh phúc lắm rồi. Và không phải riêng lĩnh vực ca nhạc còn hoài niệm “ Kỷ vật cho em “ ; trong lĩnh vực văn học vẫn không quên được “ Kỷ vật cho em “. Như bài viết trong cuốn sách “Trang sách và những giấc mơ bay - tập 1 “ do Thư Ấn Quán phát hành mới đây tại Hoa Kỳ . Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên đã “Đọc lại Kỷ Vật Cho Em “ ;

“ …Những tâm tình bùi ngùi như thế lại được âm nhạc tiếp sức, đẩy lên một bậc khiến giới công chúng càng yêu thích luồng gió mới kia nhiều hơn.
Rồi theo trào lưu thơ phổ nhạc ngày càng thịnh hành, bất ngờ công chúng lại được nghe trên đài phát thanh Sài Gòn, trong các phòng trà đô thành, các quán cà phê: “em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại...xin trả lời mai mốt anh về... anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa...” khiến mọi người ngơ ngác hỏi: Linh Phương, tác giả bài thơ, là ai vậy? Hắn trong bưng làm thơ địch vận hay trong nhóm phản chiến? Thần hồn và tứ trong bài thơ cứ bình-thản-nức-nở, bình-thản-nghẹn-ngào, coi như không có gì ghê gớm. Rồi khi cái tứ đó đi qua những cung bậc cao thấp của nhạc sĩ Phạm Duy, cộng với chất giọng của Thái Thanh lại càng run rẩy, thê thiết hơn. Những năm tháng ấy, kẻ viết bài này chỉ mới là anh sinh viên trong giảng đường, tình cờ đọc trên tờ nhật báo Độc Lập đã thoáng giật mình! Càng giật mình hơn khi được biết Linh Phương viết bài Kỷ vật cho em trong lúc đang hành quân ở Chương Thiện khoảng đầu năm 1970! Trong khi đó, những người bạn tôi đang có mặt trên khắp bốn vùng chiến thuật lại cười ha hả từ những kbc có con tem anh chiến binh bồng súng xông tới, phong bì lấm lem bùn đất, sờn rách: “... mình chắc mẩm hắn cũng là lính. Hắn mô tả tâm trạng, hoàn cảnh sao đúng hoàn cảnh tụi mình quá trời. Mai mốt tụi mình có về trên đôi nạng gỗ có về hòm gỗ cài hoa hay trên trực thăng sơn màu tang trắng... thì các cậu chớ có ngạc nhiên, chớ có buồn! Đời trai chinh chiến mấy thằng sống sót trở về?”. Mấy câu ngắn ngủn kia mãi ám ảnh tôi. Ám ảnh bởi vẻ lạc quan, coi sống chết như chuyện có không của người bạn. Mà hắn đâu để mắt tới Ngũ uẩn giai không, hắn đâu biết gì về tâm kinh đâu ảnh hưởng gì về triết học Phật giáo? Chẳng qua khi đối mặt quá nhiều với cái chết, luôn rình rập bên cạnh, không báo trước thì con người ta chẳng còn buồn để ý đến nó? Cứ chờ đón nó một cách thản nhiên như trong bài thơ Kỷ vật cho em của Linh Phương.
Vào độ tuổi ra trận mạc ấy, hẳn ai cũng có người yêu, chí ít cũng em gái hậu phương, thản hoặc một Dạ Lan từ trời cao thầm thì, chia sẻ với các anh mỗi đêm. Ấy vậy nhưng khi em của Linh Phương hỏi: Em hỏi anh bao giờ trở lại thì nhà thơ cứ thẳng đuột trả lời mai mốt anh về, có thể bằng nhiều cách về khác nhau:



...Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca...
...Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt...
...Mai anh về trên đôi nạng gỗ
Bại tướng về làm gã cụt chân...


Về bằng con đường nào thì thân thể thế hệ các anh không còn nguyên vẹn như lúc ra đi. Họ đã chắc chắn như vậy, nên chi cứ tạo một tâm thế trong những tình huống khắc nghiệt để em chuẩn bị đón nhận những bất toại trong cuộc sống chỉ có khói lửa trước mặt!...”

Sau khi xem xong DVD – Asia 66, có nhiều cô gọi điện thoại cho tôi nói : “ Em đã coi nhiều lần, lần nào cũng chảy nước mắt vì Kỷ Vật Cho Em, nhất là hình ảnh những người lính chào chiếc hòm gỗ phủ cờ và lúc ca sĩ Thanh Lan ôm quan tài nức nở “ ; “ Coi Asia 66 , em rất hãnh diện vì anh “; “ Trong Cánh Hoa Thời Loạn có 2 bản nhạc phải khóc là Áo anh sứt chỉ đường tà và Kỷ vật cho em “.Và Lữ Anh Thư cũng đã viết trên website cothommagazine.com :


"… Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
…Anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về bại tướng cụt chân
Em ngại ngùng dạo phố mùa Xuân
Bên người yêu tật nguyền, chai đá …”


Đó là đôi lời trong bài hát Kỷ Vật Cho Em, rất phổ biến trong những năm đầu thập niên 1970 tại miền Nam Việt Nam. Ngày đó, ở tuổi mới lớn, tôi cũng như mọi cô nữ sinh ở Sài Gòn thường hát bài này với bao nỗi xót xa cho những người lính. Những xót xa ngày đó chỉ là những xót xa của một đứa trẻ cho một người bị mất đi một phần thân thể vì bom đạn của chiến tranh, hay xót xa lãng mạn cho một cuộc tình thời chinh chiến.

Tôi hạnh phúc thật hạnh phúc, còn điều hạnh phúc nữa là thỉnh thoảng có người ái mộ , tôi không quen biết,gọi điện thoại và hát cho tôi nghe Kỷ Vật Cho Em. Cách đây ba tuần, một cô tên Thùy Trang ở Sài Gòn đã hát cho tôi nghe hết bản “ Kỷ vật cho em “ trên điện thoại di động.Tôi thường có những bất ngờ như thế, và tôi vô cùng xúc động trước tấm lòng người còn yêu mến “ Kỷ vật cho em “, dù đã 40 năm trôi qua.




( còn nữa )

Thursday, December 9, 2010

Hồi Ký Linh Phương - Kỳ 39 -

- Kỳ 39 -


Năm 2002, tôi lại thất nghiệp . Tất nhiên kinh tế eo hẹp hơn mặc dù tôi vẫn làm thơ gửi báo lấy tiền nhuận bút. Nhưng tiền nhuận bút cũng chẳng là bao, bởi ít có ai sống nhờ vào nhuận bút thơ cả.Hình như vào khoảng năm 2003, 2004 gì đó , tôi được kết nạp ( sau vài lần đắn đo không ý kiến khi người ta mời tôi ) vào Hội văn học nghệ thuật Tỉnh. Vài tuần sau, tôi được phân công biên tập thơ cho tạp chí C.A.C của Hội.Và cũng chỉ biên tập một vài số tạp chí thì tôi bị “ nạn “ vì một câu thơ trong bài thơ của tôi.. Nội dung bài thơ nói về người lính khi trở về cụt hết một cánh tay.


Bỏ lại chiến trường một cánh tay
Cha mang ba lô về nhà
Ngực đeo huy chương đủ loại

Giã biệt bao cánh rừng rực cháy
Bao cánh rừng đạn bom
Cha nghiêng người xuống bế con
Bằng cánh tay còn lại

Trời lúc đó nhiều mây
Gió phất phơ vạt áo trống không như lá cờ Tố quốc
Đang bay… đang bay
Mẹ mừng vui ôm cha
Bật khóc

Con lớn lên từ hơi thở nồng nàn của đất
Từ dòng sữa ngọt ngào của mẹ
Và lời ru êm đềm của sông
Từ mùi khói đốt đồng
Từ mồ hôi cha hòa cùng hạt thóc
Từ giấc ngủ nhọc nhằn cha còn vung tay gặt
Lúa chín vàng
Trong giấc mơ xanh

Cảm ơn cha người chiến binh
Đã dạy con thương yêu cuộc đời-thương yêu đất nước
Để mai này nối bước
Con vào lính như cha

( Khi người lính trở về )


Người thương binh bế đứa con bằng một cánh tay còn nguyên vẹn, còn cánh tay kia chỉ có ống tay áo trống không bay phất phơ trước gió. Đại ý câu thơ là vậy , nhưng có người suy diễn rằng : lá cờ Tổ quốc là cờ đỏ sao vàng, chứ sao trống không được. Thế là tôi phải tự kiểm điểm trước Ban chấp hành Hội và tự rút khỏi ban biên tập tạp chí ,làm một hội viên bình thường.





Năm 2005, tôi tham dự trại sáng tác văn học tại Vũng Tàu ( thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu) , cũng trong năm này tôi dự trại sáng tác văn học do Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật trung ương tổ chức tại Bình An – Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang. Ở trại sáng tác tôi gặp nhà văn Trần Thôi – nhà văn Hồ Tĩnh Tâm Hội VHNT Vĩnh Long ; nhà văn Nguyễn Thị Thu Hiền – Hà Nội , nhạc sĩ Hoàng Nhạc Đô - Cần Thơ ( con của nhạc sĩ Hoàng Trọng )…Tính tôi ít nói, không thích ồn ào nên thường không tham dự rượu chè với anh em văn nghệ sĩ. Vì thế, khi “ Hội Ngộ Văn Chương “ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đề cập đến tôi chuyện Kỷ Vật Cho Em thì nhà văn Hồ Tĩnh Tâm đã viết cho nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo : “Anh kiếm đâu ra bài viết của Linh Phương vậy? Lại còn cả hình nữa. Hồi đó trông Linh Phương khác với bây giờ quá. Hôm gặp nhau ở Kiên Lương Kiên Giang, em thấy Linh Phương như cư sĩ ở ẩn; lặng lẽ, cô độc, lúc nào cũng cứ như đang chìm trong suy tưởng gì đấy. Đến bữa cơm, tụi em thường ồn ào bia rượu, còn Linh Phương thì vẫn cứ trầm mặc đắm chìm trong thế giới nào.
Một lần em với cái Hiền, cái Nga tha thẩn ra bãi biển ngắm trăng, con dế của em nó gáy báo có tin nhắn, mở ra thì nhận đươc 4 câu thơ của Linh Phương. Thơ tình. Hai đứa chúng nó đọc xong thì a cả lên: Ông anh có người tình làm thơ hay quá. Em liền bịa ra Linh Phương là Linh Phượng. Thế là hai đứa nó cứ khảo Linh Phượng là ai. Chừng tụi nó biết Linh Phương, tụi nó ngạc nhiên: Cái ông còm nhom tóc tai dài thòn này mà thơ hay thế à?”






Tôi nhớ một kỷ niệm vui trong chuyến hành hương các tỉnh miền tây do Xuân Hương điều hành một website bên Mỹ nhân chuyến về Việt Nam chơi đã tổ chức cho anh em văn nghệ sĩ Sài Gòn và anh em văn nghệ sĩ các tỉnh đồng bằng sông Cửu long đi chơi. Đến thành phố Long Xuyên ( thuộc tỉnh An Giang ) sau một buổi tiệc tại nhà hàng với anh em Hội văn học nghệ thuật An Giang gồm : nhà thơ Trịnh Bửu Hoài – nhà thơ Hồ Thanh Điền … Đoàn văn nghệ sĩ ngủ đêm ở khách sạn An Long.Tôi , nhà thơ Vũ Trọng Quang – nhà văn Vũ Hồng ( Bến Tre ) – nhà văn Ngô Khắc Tài ( An Giang ) vẫn tiếp tục ngồi trước khách sạn lai rai cho tới gần 1 giờ sáng mới vào ngủ .Phòng tôi ngủ gồm 4 người là: các nhà thơ Vũ Trọng Quang- Phù Sa Lộc- Mặc Tuyền và tôi.
Có lẽ do uống rượu nhiều, nên ai ngủ say như chết. Mới 5 giờ sáng, chúng tôi giật mình thức giấc khi nhà thơ Phù Sa Lộc la toáng lên : “ Chết rồi , bị trộm mấy ông ơi , cái quần tôi mất rồi “ .Tôi , Vũ Trọng Quang, Mặc Tuyền nhìn lên chỗ móc quần của mình. Tất cả quần của chúng tôi đều được “ diệu thủ “ nào đó mượn tạm không chừa một ai. Nhà thơ Hồ Thanh Điền Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật An Giang là thổ địa nơi đây đã phát giác đống quần của chúng tôi được nhét dưới hốc cầu thanh lên xuống. Tất cả tiền bạc, điện thoại đi động của các nhà thơ đều không còn, chỉ duy nhất có tôi là điện thoại còn nằm trong túi quần. Nhà thơ Ngô Thị Hạnh nói vui : “Điện thoại của anh Phương như có linh hồn , lúc ở Sài Gòn làm rớt xuống đường không hay vẫn có người chạy theo trả lại. Bây giờ bị trộm, điện thoại vẫn không mất “.Đúng như Ngô Thị Hạnh nói, điện thoại của tôi nhiều lần rớt nhưng không mất, không hư. Mặc dù điện thoại đã hơn 6 năm rồi , không còn ai xài đời điện thoại này nữa ,nhưng nó chính là người bạn thủy chung để tôi liên lạc với bạn bè, người thân khắp mọi miền đất nước.
Chuyện bị trộm đã trở thành giai thoại vui “ Bốn nhà thơ mất quần “đăng trên “ Shop văn nghệ “ của báo Thanh Niên cũng như một vài website trong và ngoài nước.Mới đây, nhà thơ Phù Sa Lộc trong chuyến đi cùng nhà thơ nữ Trúc Linh Lan ( phu nhân nhà thơ quá cố Võ Minh Đường ) - nhà văn Ngọc Tuyết và anh Tôn Thất Lang - Nhật Hồng trong Hội văn học dân gian Cần Thơ đến Châu Đốc, qua Hà Tiên ghé Rạch Giá thăm tôi, Phù Sa Lộc còn nhắc đến “ tai nạn “ bốn nhà thơ mất quần ngày xưa, không nín cười được.
Tháng 11 năm 2008, tôi bị “ tai nạn “ mấy chục bài thơ viết về những trăn trở của một con người chế độ cũ .Người ta cho rằng mấy chục bài thơ này mang nội dung phản động,. Trong mấy tháng trời, tôi bị kiểm điểm trong Hội VHNT , rồi làm bản tự kiểm nêu những sai trái của mình nộp lên lãnh đạo. Cuối cùng, tôi đã ký biên bản xác nhận mấy chục bài thơ của tôi cho Phòng PA.25 .Tôi được khoan hồng không phải bị giam giữ cải tạo. Bạn bè xa lánh vì ai cũng sợ liên lụy khi tiếp xúc , có những người quen biết lại nhìn tôi bằng những ánh mắt ghẻ lạnh.Tôi cũng không oán trách một ai, âu đó là lẽ thường tình trong cuộc sống và cuộc đời vậy.


( còn nữa )

Friday, December 3, 2010

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 38 -

- Kỳ 38 -


Tôi bắt đầu làm thơ lại với mục đích kiếm tiền lo cho cuộc sống hàng ngày. Tôi cố gắng viết thật nhiều , nhưng không dùng tên Linh Phương. Thoạt tiên, tờ Văn nghệ Minh Hải rồi các tờ Kiên Giang, Hậu Giang ( bây giờ là Cần Thơ ).Sau đó thì hầu như các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Sài Gòn rồi các tỉnh khác với tên Linh Phương.
Kiếm tiền nhuận bút vừa để tiêu xài, vừa tiện tặn để dành chút tiền phòng khi bạn bè, anh em văn nghệ Sài Gòn có tin vui, tin buồn còn có chút tiền chia vui, chia buồn. Hoặc nhiều khi nhớ bạn thì có tiền đi xe lên thăm vài ba ngày cho đỡ nhớ. Lúc này, tôi đã về Rạch Giá sống một quãng đời chùm gởi nương tựa thân cây.
Khoảng năm 1994 , tôi phụ trách biên tập thơ, văn “ Trang Viết Học Trò “ cho tờ bào tỉnh.Ngoài thơ văn , còn có chuyên mục “ Đọc thơ các em “ và “ Vườn Ô Mai “ giải đáp thắc mắc về tình bạn, tình yêu cho tuổi mới lớn với bút hiệu Cỏ Non. “ Vườn Ô Mai “ rất được tuổi mới lớn yêu thích, không chỉ tuổi mới lớn không mà tuổi người lớn cũng ưa thích cách trả lời dí dỏm của tôi.

Trong những năm này , Nguyên Hương cô giáo 20 tuổi ở một huyện kế cận thương yêu tôi, đó là năm 1996.Trong thư ngày 16.10.1996 Nguyên Hương viết : “…Chiều hôm qua em nghĩ thế nào cũng có thư anh. Thế là đi dạy về, chưa kịp thay đồ dựng vội chiếc xe, em chạy sang văn phòng và thấy một bì thư quen thuộc….Anh không thương em, anh chẳng thương em tí nào cả ? Trong khi em nhớ anh ngày đêm, mong những nét chữ của anh như mong chờ hạnh phúc. Em gọi tên anh ở mọi lúc mọi nơi. Buổi sáng thức dậy người đầu tiên em nghĩ đến là anh, trong giờ dạy em cũng nghĩ về anh, đi chơi cùng bạn bè, mặc dù không có xác thể anh bên cạnh nhưng lại cũng là anh chiếm ưu thế nhất trong đầu em……Khi trái tim em nói tiếng “ yêu anh “ thì em đã nghĩ đến những trái ngang và ngăn cách. Nhưng con tim em là một con tim cuồng si. Đúng rồi ! Nó sống vì một tình cảm và cũng có thể chết vì một tình cảm thiêng liêng….Em giận anh, em ghét anh lắm, anh có biết không ?... Em yêu anh- em yêu anh. Anh có nghe thấy không ? Và anh, hãy một lần nói tiếng “ yêu em “ từ tận cùng trái tim anh, để em được mỉm cười mãn nguyện. Nói đi anh, em chỉ cần có thế thôi, vậy là quá đủ cho em rồi. Em sẽ gọi tên anh mãi mãi, khắc vào tim mình hai tiếng “ LP “…Anh mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong trái tim em. EM YÊU ANH …”


Thư ngày 19.10.1996 : “Anh yêu của em ! Anh có biết rằng vào đúng 10 h 35’ trưa ngày hôm nay, cách đây 20 năm về trước đã có một hình hài xuất hiện trên cõi đời này… để 20 năm sau, bé gái ấy trở thành thiếu nữ- môt thiếu nữ không hương trời sắc nước gì cho lắm, nhưng cũng đủ để cho một người thương nhớ… Anh yêu ạ ! Riêng anh phải cám ơn hay cả hai chúng ta đều phải cám ơn ngày hôm nay của 20 năm về trước ? Từ ngày đó để hôm nay anh có một Nguyên Hương hết lòng thương yêu anh và mặt trời nhỏ bé đã xuất hiện trong bầu trời lồng ngực anh…Rồi em ước : Giá như…giá như…bây giờ em có anh. Giá như anh sẽ làm điểm tựa cho em trong lúc này. Giá như em được khóc trong vòng tay anh, những giọt nước mắt sung sướng và hạnh phúc. Em nhớ anh lắm, anh có biết không ? Tối nay em thấy mỏi mệt lắm, chân tay em bủn rủn nhưng em vẫn ngồi viết cho anh. Anh đừng giận em đã không biết nghe lời anh, phải giữ gìn sức khỏe. Đêm nay em sẽ không vâng lời anh được đâu, vì không được ngồi viết cho anh, em sẽ cảm thấy khó chịu hơn. Với lại, em không muốn để anh phải chờ thư lâu, anh có hiểu không ? Nguyên Hương của anh luôn mong muốn anh vui mà. Chỉ cần anh vui thì dù có mỏi mệt đến mấy em cũng quên hết để làm tất cả những gì có thể mang niềm vui đến cho anh… LP ơi ! Em tin anh, rất tin anh, em tin trái tim anh là của em, tâm hồn anh là của em; và LP sẽ chẳng có ngày bỏ Nguyên Hương bơ vơ trong cuộc đời nghiệt ngã này…Em dừng bút nha anh. Anh bảo em phải vâng lời anh. Thế còn anh ? Anh có thể nghe lời cô bé con của anh không ? Anh cũng phải giữ gìn sức khỏe và thật sự hạnh phúc khi nghĩ về em nhé . Anh có buồn em không ? Đừng giận mà , em sẽ đền cho anh tất cả. Em yêu anh .Em của anh . Nguyên Hương

Cuối cùng, tôi và Nguyên.Hương chia tay- em lấy chồng, nhưng cuộc sống không được hạnh phúc, do người chồng quá ghen tương về quá khứ của vợ. Vài năm sau, có một cô học trò lớp 12 yêu tôi cũng tên Hương, nhưng là Mai.Hương. Cuộc tình đầy trắc trở bởi mẹ và chị của em chận tất cả thư từ của tôi gửi cho em. Mẹ em đã gửi cho tôi một lá thư yêu cầu tôi chia tay với em, nhưng em vẫn tìm cách liên lạc với tôi. Thư ngày 29.06.1999 em đã viết cho tôi :
“…Anh thương yêu nhất trong cuộc đời em ! Em viết thư cho anh ngoài vườn nhà em, khi mà bóng chiều đã gần như tắt hẳn. Em nhớ anh, anh biết không ? Chưa bao giờ em thấy em yêu anh đến vậy…Anh yêu dấu ! Phải chăng anh đang nghĩ đến cái ngày mà chúng ta sẽ trở thành những người cách xa vời vợi ? Phải chăng trong lòng anh, em chỉ là một cái gì đó, rồi sẽ nhạt nhòa ?
Em từng sống trong hoài nghi và em biết thế nào là những đau xót mà nó mang đến. Lúc em không còn ghi thư cho anh, em thường đọc báo KG lắm. Và mỗi lần bắt gặp một bóng hình nào đó trong tác phẩm của anh, em đã ….Anh biết cảm giác của em lúc đó như thế nào không ? Em cảm thấy mình bị bỏ rơi, em nghĩ rằng trong lòng anh lúc đó không hề có bóng hình “ Mít ướ “t- em xót xa cảm thấy anh quên em. Và mỗi lần như vậy, nỗi hoài nghi trong lòng em lại nhen nhúm, nó làm cho em buồn tủi và giận hờn, xót xa đau đớn nữa.
Em đã không đúng phải không anh ? Sau những lần như vậy, em thấy mình thật có lỗi với anh. Em đã thầm xin lỗi anh, không biết anh có nghe thấy không ? Mà dù lúc đó em có nghĩ thế nào, thì em cũng vẫn yêu anh, trái tim em vẫn là của anh. Và mãi mãi nó là của riêng anh. Anh nói cho em nghe đi, những gì anh nghĩ, anh viết ra bắt nguồn từ em hay từ hoàn cảnh ? Anh Phương ơi, một trái tim non trẻ không có nghĩa là một trái tim thiếu chín chắn, thủy chung, phải không anh ? Em yêu anh không phải “ yêu chỉ để mà yêu “ mà em còn biết chờ đợi, hy vọng và sống vì người em yêu nữa… Anh thương yêu ! Hàng đêm em vẫn chắp tay cầu xin hạnh phuc sẽ trở về cùng anh, để anh được sống với những gì lẽ ra anh phải có.
Những lần được thư anh, em cứ thẫn thờ, trằn trọc, bâng khuâng mãi… Hạnh phúc với em là điều quá bình thường với người khác. Em sẽ hạnh phúc biết bao nếu chiều nay em có anh bên cạnh, để được thì thầm bên tai anh lời yêu thương nồng nàn thiết tha trong trái tim em, để vơi chút nhớ nhung trong lòng nhỏ. Em sẽ hứa cùng anh, lời hứa của một trái tim yêu anh tha thiết : Em yêu anh hết đời này, kiếp này sang kiếp khác. Em mãi mãi là của anh. Và trọn đời, anh Phương ơi ! Em chỉ cho một người duy nhất gọi em là “ Mit ướt “. Em chỉ là “ Mít ướt “ của riêng anh…. Trời đã tối rồi. Em dừng bút, để không thôi mắt em “ có vấn đề “ thì anh Phương của em sẽ không vui . nhớ anh tha thiết . Hôn anh. Nhỏ của anh
. Mai Hương “.

Rồi em vào đại học Cần Thơ, tôi và em chia tay nhau vì biết bao hệ lụy trong cuộc tình chênh lệch tuổi tác này.Em không thể vượt qua trước sự nghiệt ngã của mọi người , và trước những áp lực của gia đình .Mà tôi , thì tôi không thể nào không trả em về với mẹ em- người đã viết một lá thư với tư cách một người mẹ thương yêu con gái của mình .
Những mối tình thoáng qua như cơn mưa rào, như vạt mây cuối trời , như nước chảy dưới cầu , như bèo giạt hoa trôi .Nhưng dẫu sao những bóng hồng đi qua cuộc đời tôi vẫn để lại một chút gì đó thương yêu , đã làm tươi hồng một trái tim thơ giữa những năm tháng lận đận , lao đao.Những người con gái ngày xưa đã hết rồi thời xuân sắc, đã có một gia đình hạnh phúc bên chồng bên con. Không biết, có khi nào đó bất chợt nhớ lại ngày xửa, ngày xưa có một người mình thương yêu chăng ?
Có lẽ tôi đa mang nhiều quá chữ “ tình “ và có lẽ như tôi đã nói – tôi là người đàn ông không chung thủy với người tôi thương yêu.Nhưng điều duy nhất là tôi chưa hề quay lưng, không biết quay lưng với bất cứ bóng hồng nào. Hãy để cho người phụ ta, chứ ta chưa hề phụ người.

Tôi có nhiều mối tình, nhưng tôi chỉ nợ một mối tình của Thu Hồng, mối tình mà suốt hơn 30 năm tôi chưa quên, không hề quên và suốt cuộc đời còn lại tôi cũng không sao trả được .Hơn 30 năm không được nhìn nhau, không ngồi bên nhau, không nói được lời thương yêu, kể từ lúc tôi rời phòng CTCT ra đi . Muốn khóc mà không khóc được sau ngần ấy thời gian cách xa. Ai trả cho chúng tôi những năm tháng thanh xuân với bao ước mơ cháy lòng khi yêu nhau ? Ai trả lại em ngày 20 tuổi mộng đầy ắp trong lòng của một tiểu thư đài các chưa lấm bụi đời ? Ai trả lại tôi thuở 24 bạc màu sương gió trên vai áo trận, kiêu ngạo đi vào trái tim em ? Ai trả lại cho chúng tôi những gắn bó , những thương yêu mà chúng tôi đã mất hơn 30 năm trời thất lạc giữa cuộc đao binh ?

Tôi còn một mối tình mà có lẽ tôi sắp nợ , đó là Dạ Hương. Chỉ với bốn năm thôi, bốn năm thời gian không dài cũng không ngắn trong tình yêu xa vời vợi : ngày bên này- đêm bên kia. Tôi biết , tôi không thể nào trọn vẹn đôi bề chữ “ tình “, nếu như hai người hồng nhan tri kỷ của tôi không nhìn về một phía. Phía trái tim thơ mỏng manh nhiều vết xước của cuộc sống, cuộc đời qua bao thăng trầm đi hết cuộc chiến tranh của ngày hôm qua.Tôi có lỗi , thật nhiều lỗi với tất cả những bóng hồng thời trai trẻ, cũng như khi xế bóng .Tôi thật vô cùng hạnh phúc vì đến giờ phút này , tôi còn có hai người hồng nhan tri kỷ chia sẻ cùng tôi những buồn vui của kiếp làm người.Tôi hy vọng hạnh phúc này sẽ mãi mãi nguyên vẹn cho đến ngày tôi nhắm mắt.Tôi hy vọng vì tôi rất sợ thất vọng khi tuổi mỗi người chúng tôi đâu còn mười tám, hai mươi.


( Còn nữa )

Friday, November 26, 2010

Hồi Ký Linh Phương - Kỳ 37 -

- Kỳ 37 -


Tôi đã đi qua những vùng đất đầy lửa đạn của cuộc chiến như Bình Dương, Tây Ninh, Bình Long, Long Khánh ở miền đông đất đỏ. Hay miền tây đầy sông rạch Cần Thơ, Rạch Giá, Cà Mau…hoặc Krek ( Kampuchea ) bằng một tâm hồn thơ đầy mơ mộng của tuổi thanh xuân về một tình yêu , về một mai đất nước hòa bình .. Sự tàn bạo của đao binh , khốc liệt của mặt trận ngày một gia tăng theo cường độ chiến tranh.Tôi là một chứng nhân, biết anh em chúng tôi chết như thế nào ở những ruộng đồng, góc núi, dòng sông, cánh rừng là do đâu ? Anh em chúng tôi thương tich , tật nguyền , mất cả cuộc đời hoa mộng như thế nào là do đâu ? Những anh em Lao Công Đào Binh- những anh em ở đơn vị trừng giới bị đày ải , đau khổ như thế nào là do đâu ?. Anh em chúng tôi chỉ biết cắn răng thầm nói với nhau rằng : Chiến tranh mà . Ừ ! Chiến tranh là thế..


“…Từ giã bọn mày mai tao lên núi
Mặc áo lao công đập đá xây thành
Làm bạn vắt mòng chung vui với muỗi
Đắp lũy thông hào chờ cuộc giao tranh

Từ giã bọn mày tao đi nhặt nốt
Võ đạn đồng rơi rớt giữa quê hương
Từ giã bọn mày tao đi nhặt nốt
Dưới ruộng-dưới đồng-những máu-những xương

Từ giã bọn mày rong chơi ngày tháng
Cùng vợ- cùng con -cùng mấy con đào.
Tao lỡ sinh ra một đời lận đận
Thế cũng đành -cũng chịu biết làm sao ?

Nếu như thương tao bọn mày ở lại
Vui với giảng đường đại học ngày thi.
Nếu như sau này bọn mày có dạy
Nhớ kể học trò về những người đi.

Và hãy nói họ chết rồi lâu lắm,
Từ nhiều năm qua trong cuộc chiến tranh
Từ nhiều năm qua vành khăn sô trắng
Lớp lớp hàng hàng trang điểm tóc xanh.

Từ giã bọn mày xin đừng đưa tiễn
Dù một lần tao làm gã tội nhân
Từ giã bọn mày mai tao xuống biển
Tay ngoằn ngoèo vẽ trọn chữ Việt Nam

1971
( TỪ GIÃ BỌN MÀY - Tuần báo Khởi Hành 1971 )


Chiến tranh kết thúc đã 35 năm. Chiến tranh kết thúc không phải ở nơi chiến trường , không phải do người cầm súng giữa hai bên . Mà chiến tranh kết thúc ở sự mặc cả trên một cái bàn tròn nào đó không phải là Việt Nam.Ba mươi lăm năm vết thương vẫn còn rỉ máu. Chương trình “ Như chưa hề có cuộc chia ly “ trên VTV vẫn còn biết bao hồ sơ gia đình ly tán chưa tìm được nhau, dù đó chỉ là một phần nhỏ trong cuộc ly tán lớn lao của cả một dân tộc . Nhất là cuộc tháo chạy bi thảm của mấy trăm ngàn đồng bào miền Trung và binh sĩ miền nam Việt Nam từ Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng về Sài Gòn .






Cuộc tháo chạy phơi mình cho đạn bom tàn sát, biết bao sinh mạng con người nằm dài theo con đường được mệnh danh là “đại lộ kinh hoàng “. Biết bao gia đình phải thất lạc mỗi người một ngã . Rồi tiếp tục cuộc tháo chạy ra nước ngoài , thêm một nhát dao cứa đứt trái tim của người Việt Nam còn lương tri, còn biết thương đồng bào của mình .Hình ảnh đau thương ấy đã khắc sâu vào tâm khảm của chúng ta không bao giờ quên.







Có những gia đình may mắn hội ngộ , có những người yêu sau mấy mươi năm tìm gặp nhau. Đó chính là duyên phận. Vì với mấy mươi năm dài như thế sẽ không dễ gì gặp lại nếu không có duyên phận . Tôi cũng là trong số ít trường hợp ly tán mà trùng phùng như đã nêu trên. Bây giờ , nhiều người đã tìm được tôi , có người cách xa nửa vòng trái đất , có người còn ở Việt Nam. Thật bất ngờ khi nhận một cú điện thoại, thật sửng sốt khi đọc những dòng email của những người mấy mươi năm trước. Buồn vui lẫn lộn không sao tả xiết.Gặp lại nhau, những kỷ niệm tốt đẹp vẫn không phai mờ trong ký ức, nhưng nụ cười, khuôn mặt, quê hương đã không còn như xưa. Tất cả đều biến dạng sau lần chia ly ngày ấy.Thân phận của tuổi trẻ ngày ấy là cái chết, là hiến dâng cho mảnh đất đau thương này một phần thân thể. Sinh và tử không thể tách rời nhau .




Xin chào! Tổ quốc thương đau
Ngàn năm mây trắng ngang đầu còn bay
Gió rì rào thổi đêm nay
Rượu chưa uống cạn đã say ngất trời

Xin chào! Đôi chút buồn vui
Khăn tang đội suốt một thời thanh niên
Tôi cầm súng bắn chỉ thiên
Vì yêu đất nước-và em vô cùng

Xin chào! Dòng máu anh hùng
Nở hoa từ mấy mươi năm đỏ hồng
Chiến tranh cốt nhục tương tàn
Sao tự hào nói: -Cha rồng-mẹ tiên?

Xin chào! Bè bạn-anh em
Cho tôi được chết bình yên phút này
Thèm. Chao ôi! Một bàn tay
Dỗ dành giấc ngủ những ngày trẻ thơ

Xin chào! Tôi kẻ mồ côi
Không cha mẹ sống bơ vơ giữa đời
Chỉ mong qua kiếp con người
Về thiên cổ -chính là nơi đợi chờ

Xin chào! Tôi với câu thơ
Viết khi còn sống thay lời trối trăn
Mai tôi nằm dưới mộ phần
Bao oan khiên trả lại trần gian thôi

Xin chào! Đôi mắt khép hờ
Tiễn đưa đừng khóc-ngậm ngùi hồn tôi

( XIN CHÀO )


Tất cả đều biến dạng , tình người đối với nhau cũng biến dạng giữa bao điều oan trái, hệ lụy và hận thù. Duy điều tôi tin rằng cho dù bao nhiêu năm nữa, có những mối tình sẽ không bao giờ biến dạng .Dù hiện tại có đau đớn cách mấy khi gặp lại nhau, mỗi người có một cuộc đời riêng thì tình yêu vẫn vĩnh cửu trong trái tim .
Tôi nhớ lần đầu tiên khi trở về Sài Gòn sau gần 20 năm xa cách vì chiến tranh , tù đày và nổi trôi nơi xứ lạ quê người . Tôi thấy Sài Gòn bây giờ không còn là Sài Gòn ngày xưa nữa.Một Sài Gòn với những con đường vắng lặng , hai hàng me xanh bên đường rụng lá vương trên những tà áo trắng học trò của thời hoa bướm mộng mơ. Sài Gòn một thời được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông đã trôi vào quá khứ .Hiện tại Sài Gòn là những ngôi nhà cao tầng, là những con đường đông nghịt xe cộ và người, là sự sống tất bật của guồng máy thế kỷ 21, đôi khi khiến người ta trở thành vô cảm với một cảnh đời nào đó xảy ra trước mắt mình.

.Tôi bắt đầu làm thơ trở lai, và gửi đăng báo kiếm tiền nhuận bút đắp đổi qua ngày ,có lẽ là năm 1986,1987 gì đó.Tôi bỏ làm thơ kể từ 1975, sau hơn 10 năm mới viết những bài thơ tình , chủ yếu làm thơ là chuyện mưu sinh.



Ta cố quên mảnh đời phiêu bạt
Quên đắng cay u uất trong lòng
Bạn bè thương ta thằng lưu lạc
Thương còn hơn ruột thịt ta thương

Bạn bè thương ta thằng lỡ vận
Chung góp nhau đôi chút đỡ đần
Tuổi bốn mươi rồi hai tay trắng
Nhìn tương lai bỗng chốc tối sầm

Phải chi sống được như Hàn Tín
Chịu khoanh tay làm kẻ thấp hèn
Thì đâu có ngày ta mất việc
Mười năm lận đận biết bao phen

Thôi nhé ! Tim ơi đừng bật máu
Cho niềm đau âm ỉ một thời
Ta cứ ngỡ đất trời giông bão
Từng giọt hồng thắm đỏ thơ xưa

( CHÚT ĐỜI TA PHIÊU BẠT – 1989 )


Tưởng hơn 10 năm bỏ thơ tôi không còn viết được nữa , cũng may áo cơm của cuộc sống và cuộc đời lận đận đã giúp tôi có những cảm xúc trong sáng tác của mình.Những nỗi đau dồn nén từ bao năm được giải tỏa trong thơ.Những oán hận cũng nhờ thơ bay đi không còn chất chứa trong lòng , khiến tâm hồn tôi trở nên thanh thản, nhe tênh.Tôi ngộ ra một điều : thơ mang đến cho chúng ta sự nhân ái, bao dung của con người với con người.Đôi lúc , có những chuyện buồn trong cuộc đời ,tôi hay nghĩ về tuổi thơ của mình .Hồi đó, mỗi lúc tôi buồn, má chỉ cần cho tôi một cái bánh hay một viên kẹo thì tôi vui ngay.Bây giờ , buồn cũng chỉ buồn một mình, tự bản thân giải quyết nỗi buồn , gánh chịu hay trút bỏ cho nhẹ nhõm đôi vai cũng do mình quyết định.


( còn nữa )

Monday, November 22, 2010

Hồi ký Linh Phương - kỳ 36 -


- Kỳ 36 -


Những ngày tháng trôi như một giấc mơ. Một giấc mơ dài trải qua bao thăng trầm trong cuộc đời cũng như trong cuộc sống của hai chúng tôi. Gặp lại nhau hơn 30 năm nhớ nhung xa cách, chúng tôi vẫn không thăc mắc về nhau ngần ấy thời gian. Hơn 30 năm trước, chúng tôi đã không thắc mắc về nhau rồi , hà tất là 30 năm sau. Điều cần nói chúng tôi sẽ nói, đôi khi không nói, nhưng chúng tôi hiểu trong lòng chúng tôi nghĩ gì , trái tim chúng tôi nói gì. Hơn nửa đời người chia cắt là hơn nửa đời người thất tình nhau.
Nhắc lại kỷ niệm ngày xưa, đọc lại nhật ký và những lá thư tôi gửi em thời trai trẻ mới yêu nhau , xa nhau . Chúng tôi đều bồi hồi xúc động và em đã khóc.Gần nhau bao nhiêu lâu mà biền biệt mấy chục năm dài đăng đẵng .Yêu nhau bao lâu, em đã tự đeo cho mình chiếc nhẫn vào ngón tay áp út thiêng liêng, vì em nghĩ cuộc đời em đã thuộc anh,về người mình thương yêu hết lòng hết dạ.Năm tháng đợi chờ không một lá thư, không tin tức để hy vọng. Vậy mà em vẫn chờ đợi trong nỗi nhớ , trong nước mắt với người vô tâm như tôi.Tôi đã không níu em đến gần bên tôi, níu muôn trùng về bên tôi, nên đành “ Một đời lạc lối em về nhà ai “. Bảy năm chờ đợi, cuối cùng vì bao nhiêu sự ràng buộc của gia đình, em chấp nhận một cuộc hôn nhân.
Ôn quãng đời mấy mươi năm, em kể lại thư tôi viết : “ Anh sẽ câu cá phơi khô bán lấy tiền dành dụm để ngày trở về cưới em “. Kể lại chuyện khi tôi ở Nông trường Quốc Doanh trong thời gian tôi học tập cải tạo.Kể lại Trần Công Thành em trai của em xuống Cà Mau tìm tôi hai lần vào năm 1990 , 1992 nhưng không gặp.Tôi thích nhất là khi em đọc những bài thơ trong tập thơ tôi viết tay tặng em ở phòng Chiến Tranh Chính Trị năm 1973 . Những bài thơ theo em rất hay khác xa với những bài thơ bây giờ. Những bài thơ đã làm em “ chết cả đời “ .Em bảo ngày đó em thất tình tôi; còn tôi thì nói tôi thất tinh em. Thì ra , tôi và em thất tình nhau mà không biết.
Hoài niệm về quá khứ,chúng tôi cảm nhận được hạnh phúc vô cùng dù là thứ hạnh phúc khổ đau.,ly tán trong thời kỳ chiến tranh.Chấp nhận yêu tôi, em đã chấp nhận cuộc tình đầy nước mắt. Đi ngoài đường cũng khóc, ở giảng đường cũng khóc, đến nơi tôi lưu đày không gặp mặt cũng khóc. Đến và yêu như một sự run rủi của định mệnh, thất lạc nhau qua cuộc bể dâu và gặp lai nhau sau ba mươi mấy năm cũng là định mệnh. Định mệnh xui khiến một tiểu thư đài các trong một gia đình quyền quý lại yêu tôi.
Gặp lại nhau lúc đầu tôi lốm đốm bạc, em thì đã qua thời xuân sắc. Biết tin nhau mừng quá, nước mắt rưng rưng.Mới đó đã gần 40 năm, sắp hết đời người.Bồi hồi với bao kỷ niệm tràn về ký ức-ký ức vẫn hồng, kỷ niệm vẫn xanh và suốt một đời chúng tôi biết rằng đã mắc nợ nhau.


Thể nào ta quên được em
Dù đã dặn lòng đừng nhớ
Trời ơi ! Ngực gầy đau nhói
Như ai cắt trái tim người

Bao ngày qua-bao đêm rồi
Rượu buồn uống hoài chưa cạn
Cứ tưởng -ta hình-em bóng
Trăm năm bóng vẫn bên hình

Ngờ đâu tan vỡ cuộc tình
Ta-em-suốt đời chia cắt
Suốt đời bóng là ảo giác
Để hình thương mãi khôn nguôi

( Bóng và hình )


Tôi nghĩ tôi là hình- em là bóng, hình bóng không thể nào cắt rời được-nhưng có đôi lúc, tôi lại nghĩ bóng chỉ là ảo giác. Nhưng không, khi đọc bài thơ này trên VNTQ, em đã khẳng định rằng bóng và hình mãi mãi là một thực thể duy nhất bằng những câu thơ của em :


Anh đừng tưởng anh là hình – em là bóng
Ví dụ trăm năm bóng vẫn ở bên hình
Dù thời gian có làm dang dở cuộc tình
Để em -anh suốt đời ngăn cách
Để anh biết :
Suốt đời bóng em không là ảo giác
Và để hình anh thương nhớ mãi khôn nguôi


Trong thời gian gần đây, tôi gặp lại nhiều “ người muôn năm cũ “, người tôi mang ơn cũng có , người mang ơn tôi cũng có .Tôi nhờ “ may mắn “ có một chút “ tiếng tăm” nên chỉ cần lên những công cụ tìm kiếm gõ tên là sẽ có câu trả lời. Chính vì thế mà họ gặp lại tôi .Nếu không, e rằng “ bóng chim tăm cá “ với thời gian đã xa lắc xa lơ, người góc biển kẻ chân trời khó lòng hội ngộ sau mấy chục năm ly tán.

Có những lúc tôi cảm thấy hết sức cô độc trước cuộc đời và cuộc sống.Lúc bệnh hoạn, tôi tự dưng sợ chết, sợ tâm niệm của mình chưa kịp hoàn thành- sợ ước mơ đi hết một vòng đất nước mà ngày xưa binh đao khói lửa không thể nào thực hiện sẽ không bao giờ trở thành hiện thực- sợ người xưa không gặp lại người xưa. Phải chăng có nhiều tuổi rồi, quỹ thời gian còn lại càng ngắn càng sợ chết chăng ? Chính vì những ám ảnh đó mà tôi có bài thơ dự báo về cái ngày mình ra đi.


Thế rồi trái tim anh ngừng đập
Thân thể dần dần lạnh tanh
Ý niệm về không gian - thời gian không tồn tại
Anh biết mình đã chết
Khi mơ hồ thấy mọi người vây quanh khóc than thống thiết
Mọi người thay phiên nhau kể lể về ngày xưa…ngày xưa anh còn sống
Ngày xưa dĩ nhiên luôn luôn là tốt đẹp – luôn luôn vô cùng cảm động
Dù thương hay ghét - không ai không ca ngợi
( Bởi chẳng ai nỡ nói xấu người chết bao giờ !)

Thế rồi em cũng đến - thắp nén hương giã từ
Và đặt lên ngực trái chỗ trái tim anh – một bông cúc vàng với lời vĩnh biệt
( Hãy thanh thản mà đi - hãy để lại thế gian những đau khổ triền miên – bao mối tình oan nghiệt
Một đời anh đã trót đa mang )

Mưa sẽ đầy trời lúc di chuyển áo quan
Rất nhiều … rất nhiều bàn tay vẫy-rất nhiều đôi mắt ướt
Có tiếng kèn- tiếng trống- tiếng đọc kinh -tiếng khóc
Tiễn đưa linh hồn anh đi vào cõi vĩnh hằng
Xe tang sẽ chạy ngang con đường
Nơi quán cóc anh thường uống cà phê buổi sáng
Nơi quán nhậu anh thường ngồi tới khuya nghe còi hụ giới nghiêm – nghe vu vơ tiếng súng
Nơi anh em thường tụm năm - tụm bảy ở Ngã tư quốc tế bàn chuyện chiến tranh –mơ ước hòa bình
Hoặc tấp qua trước cửa rạp Nguyễn Văn Hảo vừa ăn tô mì bình dân – vừa xem pano quảng cáo nữ nghệ sĩ Thanh Nga diễn vai chính trong vở tuồng cải lương “ Sơn nữ Phà Ca “

Xe tang sẽ dừng lại Thư viện Quốc gia
Cho anh nhìn lần cuối cùng chỗ mình hò hẹn
Hàng cây bên tường biệt thự nhà ai vẫn nở hoa màu tím
Màu tím hơn ba mươi năm anh da diết nhớ thương
Da diết chờ đợi một người
Da diết chờ đợi một mối tình
Da diết chờ đợi một cái nắm tay
Da diết chờ đợi một nụ hôn nóng hổi nồng nàn

Xe tang sẽ dừng lại cổng nghĩa trang
Người ta khiêng anh bỏ dưới chiếc hố sâu đào sẵn ngày hôm trước
Người ta sẽ rải hoa – sẽ lấp đất
Anh không còn thấy em- không còn thấy mặt trời- không còn thấy cỏ cây – không còn thấy những gì anh muốn thấy

Vĩnh biệt em
Vĩnh biệt Sài Gòn

( Vĩnh biệt Sài Gòn ngày anh chết )



Sự ra đi là lẽ thường hằng của con người, không ai ngoại lệ. Trong chiến tranh tôi đã không chết và không sợ chết. Nhưng đến lúc cuộc đời bước vào ngưỡng cửa mùa thu, bỗng dưng đôi lúc tôi sợ chết lạ lùng . Đôi lúc tôi lại muốn chết, ví chết là một giải thoát mọi hệ lụy , đa mang của kiếp nhân sinh.Không còn thương yêu, giận hờn, buồn vui trước những gì xảy ra trong cuộc sống, cuộc đời không được vui của mình.

Tôi thường hay tủi thân vì mình như một loài chùm gởi sống nhờ thân cây nào đó.Buồn nhiều hơn vui. Lớn tuổi rồi, không làm được gì, mà có muốn làm cũng” lực bất tòng tâm “, có một nơi an ủi tâm hồn thì lại bị cô lập, hất hủi .
Nhớ những ngày đập đá đôi bàn tay chai sần tóe máu, đôi kiếng cận bị mảnh vụn của đá nhăm nhăm như một vùng bị bom B.52 rải thảm. Nhớ những bữa cơm ăn với muối mà không đủ no. Nhớ những trận đòn thù cắn răng không một tiếng rên. Nhớ mối tình dang dở vì chiến tranh , vì con người vùi dập. Tất cả là ký ức, là quá khứ xa xăm, là hiện tại, là vết thương tôi không thể quên dù tôi không oán hận
.


( còn nữa )

Saturday, November 13, 2010

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 35 -


- Kỳ 35 -


Tôi đã đi giữa chiến tranh khốc liệt , qua nhiều cánh rừng, nhiều con sông , nhiều cụm núi., nhưng luôn nhớ đến một người con gái ngày đêm đang đợi chờ tôi ở kinh kỳ phồn hoa. Khói lửa, đạn bom, tù đày đã ngăn bước tôi về với em, về với người tôi thương yêu nhất trên đời. Chiến tranh có lý do để lướt qua những cảnh đau thắt lòng, những nhớ thương dằn vặt khi chia ly. Tôi cũng ngỡ chiến tranh sẽ không kéo dài, chỉ một vài năm nữa thôi, cũng như Thu Hồng cũng ngỡ vài năm nữa thôi .


Lúc tiễn anh cầm súng lên đường
Em ngỡ chỉ vài năm xa cách
Chỉ vài năm thôi mà muốn khóc
Giấu khát khao-hy vọng-vào lòng


Một vài năm nữa thôi, vậy mà :


Mới đó đã gần mấy mươi năm
Chưa một lần chúng mình gặp mặt
Hòa bình anh vẫn còn thất lạc
Trái tim em hóa đá đợi chờ


Mấy mươi năm trôi qua, vết thương chiến tranh chưa thể nào lành miệng, cuộc chia ly vẫn chưa kết thúc trong lòng dân tộc Việt Nam. Trong những tháng năm tôi băng mình trong lửa đạn, những năm tháng lưu đày . Nhật ký của em đầy ấp nhớ thương, em viết :

Ngày 20/03/1974

Buổi trưa ở đây oi nồng hơn tất cả mọi nơi. Nắng bốc khói trên mái tôn đỏ chót, có những ống khói đen ngòm như xưởng máy. Em ngồi đây. Phòng kiểm soát. Nghe tim mình đau nhói từng hồi, xót xa đôi mắt theo làn vôi đỏ . Bức tường cao ngất như không bao giờ có nơi tận cùng. Anh Phương mịt mù quá, có thể anh chỉ cách em một bức tường này, có thể anh ở cuối những căn phòng kia ? Lá thư anh viết cho em từ dãy hành lang đen tối , không đủ cho em có thể hình dung ra chốn anh ở ra sao ? Và em không hiểu tại sao em lại đến đây ngày hôm nay ? Bởi một lý do nào xui khiến ? Tình yêu của anh ? Vì lời lẽ những lá thư anh viết cho em chăng ? Tình cảm đã im lìm chết trong tim tự lúc nào, nhưng em biết chắc em vẫn còn rung động, sợ hãi, lo lắng cho anh khi cuộc đời anh bị giam hãm trong thành lũy kiên cố của chiến tranh, thu hẹp giữa khoảng trời u uất này . Anh có thể không thấy được ngày mai , ngày mai đất nước hòa bình, ngày mai anh về với em . Đôi khi em tự hỏi với lòng là tại sao người ta có thể cư xử với anh như thế. Em bỗng muốn biến thành thiên thần chắp đôi cánh cho anh Phương của em niềm vui , dù là giây phút ngắn ngủi trong đời người cầm súng. Như bây giờ- hôm nay, em đã đến , nhưng không cách nào gặp được anh, gặp được Phượng Hoàng thương yêu của em.


Anh ơi ! Anh nào biết em đang ở đây , thật gần anh trong gang tấc mà cũng xa anh vời vợi nghìn trùng. Định mệnh đã xui khiến em gặp anh trong hoàn cảnh đau lòng. Vì anh là một quân nhân. Em quan niệm thi sĩ là lãng mạn, mà em không phải là Mộng Cầm của Hàn Mặc Tử. Em là một Mai Đình u ẩn kề cận người yêu khi chàng bị mọi người xa lánh vì chứng bệnh nan y. Em sẽ cố gắng cho anh niềm tin trong suốt những tháng năm lưu đày trên chính quê hương của mình. Rồi ngày anh trở về, em quay lưng cho anh yên tâm lập lại cuộc đời , tương lai sự nghiệp. Tất cả rồi sẽ dần lắng đọng như một ngày vừa dứt, như một cơn mưa vừa tạnh . Rồi anh tỏa sáng trên con đường văn học nghệ thuật. Em sẽ thật vui mừng, dù có sống âm thầm trước hào quang của anh , trước mái ấm của anh . Buồn lắm, nhưng biết làm sao hơn ? Nhiều khi em muốn đem đời mình nương nhờ cửa chùa, làm ni cô quét lá vàng rơi mà âm thầm thương, âm thầm nhớ anh.. Nhưng khổ thay , em còn nhiều thứ ràng buộc. Và còn một điều mơ hồ, mong manh mà em chưa rõ cứ ràng buộc lấy em. Em chỉ biết nhếch môi chua chát mỉm cười khi chợt nhớ tử vi bảo rằng :Em sẽ sung sướng một đời, chồng con hiển đạt. Ôi ! Trớ trêu thay !

Ngày 14/06/1974

Nhà số 9. Xuất hiện một người mang dáng dấp và khuộn mặt của Linh Phương. Mình xao động quá chừng, nhớ Phương tới nỗi nhào lên xe chạy bay ra nhà thờ Đức Bà mà đứng khóc một mình. Đứng hàng giờ mà tưởng tượng Phương đang ở đâu ? Làm gì ? Có nhớ em không ? Ừ ! Thì ra là quá khổ.

“ Ta lạy ta ăn năn
Yêu anh ta quá khổ
Trọn một kiếp nhọc nhằn…”

Lạy trời cho tôi quên được “ hắn “, quên được anh .

Ngày 18/06/1974

Nghe tin anh đi vào nơi gió cát, mình nghe chút gì lành lạnh sống lưng. Quả thật rồi, anh đã biền biệt xa em , chỉ gặp nhau một lần là đủ sao anh ? Bao giờ cũng như bao giờ, anh lúc nào cũng bi quan. Và bây giờ đúng như em nghĩ , tât cả rồi sẽ như đám phù vân….
…..
Ngày 17/07/1974


Nhà số 9. Người mang hình bóng của Linh Phương đã trở lại ngôi nhà số 9. Buổi chiều ra đứng ở Balcon nhìn xuống xóm, mình đã thấy hắn đứng ở khung cửa bao giờ. Hắn ra dấu và tới nhà ngỏ ý muốn mượn cây đàn, còn cả gan bảo mình xuống hát một bài nữa chứ . Hắn nhìn lên, gọi khẽ :” Xuống đây hát một bài đi, tóc thề ơi ! “. Vô duyên quá đi, nhưng lỗi tại mình cứ nhìn người ta chằm chằm, dáng dấp của Phương. Cái bọt nước thứ nhì của cái bọt nước thứ nhất. Rộn rã, tưởng như mới ngày nào gặp Phương. Nhưng tức tối, bởi vì hắn chứ không phải là Phương của em, dù hắn có muôn ngàn lần giống Linh Phương. Hãy xem hắn như một người lạ, cầu trời cho mình đừng thấy giống Linh Phương, để phải sững sờ nhìn hắn mà mơ- một giấc mơ tai hại…
….
Ngày 02/09/1974

Hôm nay không có tiết học. Mọi người trong giảng đường ra về gần hết. Chỉ còn lại một mình. Mình đã từ chối lời rủ đi ăn kem của Thảo, của Triết , để ngồi một mình suy nghĩ đến anh . Tại sao em không nhận được thư anh ? Phương ơi ! Em đã viết cho anh 6 lá thư rồi kể từ ngày biết tin anh đi vào nơi gió cát. Em thật nóng lòng muốn biết tại sao ? Tại sao ? Anh ơi ! Nước mắt đã rơi xuống ướt cả một bên má, ướt cả tóc. Tội nghiệp em chưa anh ? Em muốn biết tại sao em luôn bất hạnh trong tình yêu. Em chưa hề biết cảm giác hạnh phúc khi yêu. Khi anh đã rời xa em biền biệt thì em mới biết rằng em yêu anh tha thiết. Những dòng chữ, những vần thơ luôn ám ảnh em- em đã đọc đi đọc lại nhiều lần, lúc nào cũng ở cùng em. Hãy viết thư cho em đi Linh Phương . Em chờ anh .

Ngày 07/12/1974

Vừa đi học về , nhìn thấy trên bàn tờ thư nhỏ, nhỏ hơn lá thư bình thường .Mình run rầy lạ lùng. Ôi trời ! Thư của anh . Nước mắt cứ chực trào ra, tim đập rộn ràng . Anh vẫn còn đây, vẫn còn nhớ đường Lê dấu ái như anh vẫn thường gọi, nhớ tới chim di tội nghiệp của anh. Thư anh không dài, nhưng gói ghém tất cả những yêu đương mà em mong mỏi., đợi chờ . Có một điều anh nói là anh không nhận được thư em, anh còn nói lúc này anh mập lên được một tí, nhờ có tài văn thơ mà đỡ tấm thân.. Em mừng quá , nước mắt cứ tuôn trào không giấu diếm được ai.
Buổi tối mình cứ đọc đi, đọc lại những dòng thư mà tưởng tượng Phương đang ở đâu đó trên quê hương của mình. Và Phương có thể hiểu được mình đã nghĩ về anh nhiều như thế nào. Còn 2 ngày nữa là đúng một năm kỷ niệm ngày mình đến Phòng Chiến Tranh Chính Trị gặp Linh Phương . Anh ơi ! Em sẽ viết thư cho anh ngay khi em học bài. Em yêu anh .

Năm tháng đao binh, tử - sinh là trò chơi của tuổi trẻ sinh ra và lớn lên trong thế hệ chúng tôi. Thế hệ đầy đau thương mất mác mà chúng tôi bắt buộc phải tham dự , không thể nào khác hơn. Trong thời điểm ấy, sự bi quan về cái chết, về những thương tích tật nguyền ,là điều tất yếu , là hệ lụy của chiến tranh dai dẳng hơn 20 năm trên quê hương giàu xác chết, nghèo tình người. Nên bài thơ “Để trả lời một câu hỏi “ hay “ Kỷ Vật Cho Em “ của tôi , nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc đã nói lên thảm cảnh bi đát mà tuổi trẻ chúng tôi phải chấp nhận nó như trái tim cần hơi thở, như con người sống phải cần ăn uống và tình yêu. Tâm trạng buồn bã ảnh hưởng không ít trong thơ văn của những nhà thơ, nhà văn trực diện với chiến tranh Việt Nam. Và bài thơ “ Cho đau lòng lẫn khuất “ của tôi viết từ mặt trận miền Tây gửi Thu Hồng với lời : “Tặng Thu Hồng qua ngôn ngữ nam bộ của quê hương mẹ thân thiết nhất đời Linh Phương “ đã chứng minh điều tôi nói.


Ơi mùa xuân rồi ta hoài ốm yếu
Tợ cây khô nằm lã ngọn đợi chờ
Tay xanh xao thư viết gởi tên người
Em yêu dấu như tình ta tươi mát
Em yêu dấu bỗng gần trong gang tấc
Kẻ nghìn trùng người biền biệt mù xa
Em cứ đi về ngang ngõ phồn hoa
Gọi ngàn tiếng khi đời nhau trắc trở

Gọi ngàn tiếng từ trong ngôi mộ cổ
Rất thật thà ta mặc chiếc áo quan
Ôi hồn ma bóng quế tự trăm năm
Ta hiển hiện cho đau lòng lẫn khuất
Ta vời vợi cho nụ cười chợt tắt
Người quên chi người tội lắm người ơi
Người áo vàng người trông thật là thơ
Ta tưởng tượng em đồng bằng châu thổ
Ta tưởng tượng em miền Tây nam bộ
Tình tứ làm sao em nói em dìa
Tình tứ làm sao giọt lệ đầm đìa
Dáng thanh thoát với môi hồng mắt biếc

Người đã khóc khi liệm ta dưới huyệt
Đất cũng buồn ôm trọn nắm xương khô
Bia đá cũng đau ai dựng trước mồ
Người còn sống thương người mới chết
Người đứng đó cho đau lòng lẫn khuất


Tình yêu của Thu Hồng và tôi đi trong lửa đạn mịt mù, đi qua ngần ấy chiến tranh- tù đày -ngần ấy khổ đau- ngần ấy biền biệt cách xa vời vợi hơn ba mươi năm mới có ngày biết tin tức nhau. Ngần ấy thời gian vẫn không nguôi hy vọng dù tưởng chừng như vô vọng sau khi kết thúc chiến tranh. Tình yêu chúng tôi với ngần ấy thời gian cách xa đau khổ nhưng ở tận cùng trái tim chúng tôi không hề có cuộc chia ly. Mãi mãi chúng tôi không hề lìa tan , bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu vẫn tồn tại cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt .


( còn nữa )

Sunday, November 7, 2010

Hồi Ký Linh Phương - kỳ 34


- Kỳ 34 -


Nhờ internet mà có những người xa nhau , mất liên lạc với nhau hằng mấy mươi năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã tìm lại được nhau. Thật là kỳ diệu, dù cách xa hơn nửa vòng trái đất, nhưng cuối cùng rồi cũng hội ngộ qua những công cụ tìm kiếm của Google hay Yahoo. Trường hợp tôi và Thu Hồng biết tin tức nhau vào ngày 9 tháng 10 năm 2009 cũng nhờ công cụ Google .Nhạc sĩ Nhật Linh điện thoại tìm được tôi ngày 07/06/2010 cũng nhờ vào các trang web. Hay tôi với Dạ Hương cũng vậy .Tôi nói đó là điều kỳ diệu, thay thượng đế sắp đặt cho những người muốn tìm nhau sẽ gặp nhau, cũng không gì quá đáng .
Mới đây, ngày 08/06/2010 tôi nhận được email với tên Trần Xa Xứ, nội dung :” Linh Phương khỏe không ? Tình cờ đọc thấy Linh Phương trên trang web ,nên gởi bạn bản photo này. Linh Phương có nhớ ra không ? Thân mến. Trần Xa Xứ “. Cái tên Trần Xa Xứ lạ hoắc tôi không biết là ai, nhưng nhìn vào tấm ảnh Trần Xa Xứ gửi , tôi không thể nào quên.Tấm ảnh tôi chụp với Phong Linh Trần Nguyệt ( Nha Quân Pháp ) trước cửa Phòng Chiến Tranh Chính Trị năm 1971.Tôi trả lời email cho PL.Trân Nguyệt là tôi nhớ chứ, đã 37 năm rồi . PL.Trần Nguyệt gởi tiếp cho tôi emai nôi dung :“Không ngờ Linh Phương nhớ dai như vậy. 39 năm rồi, không phải là 37 năm, vẫn còn nhớ y nguyên. Thỉnh thoảng dọn dẹp những tấm hình cũ, nhìn hình tôi cứ nghĩ không biết bây giờ Linh Phương ở nơi nào ?... Hồi đó, tôi thích 2 câu thơ của Linh Phương cho đến bây giờ vẫn nhớ :


“… Con đường buổi chiều anh đứng đợi
Người có mùi da thơm lá cây…”


Cầu mong Linh Phương được nhiều sức khỏe và niềm vui. Hy vọng có dịp mình sẽ gặp nhau…”.

Nếu không có internet thì làm sao chúng tôi có ngày gặp lại và nói với nhau những lời mừng vui như thế này. Tôi nhớ PL.Trần Nguyệt cao lêu khêu, nhớ Kỳ , nhớ Công Thành, nhớ Thiếu Tá Danh-những người anh, người em ,người bạn tốt của tôi. Tôi vẫn thường nghĩ, như PL.Trần Nguyệt đã nghĩ : không biết bây giờ những người anh, người bạn tốt ấy giờ ở nơi nào ? Cuộc sống ra sao ? Còn sống hay đã chết ?




Những biến cố trong cuộc đời khiến nhiều khi tôi tự hỏi tôi là ai ? Mấy mươi năm con đường tôi đi đúng hay sai ? Trước năm 1975, tôi được cho là phản chiến với “ Kỷ Vật Cho Em “ .Sau 1975 , tôi lại được “để ý “ vì những bài thơ bày tỏ chính kiến và những trăn trở trong lòng mình .
Chiến tranh rồi hòa bình ,tôi không biết tôi là ai với lý lịch đen ngòm. Tôi đã hồn nhiên làm một kế toán trưởng thương nghiệp, bị đuổi thất nghiệp chạy vào một huyện làm kế toán xây dựng cơ bản . Không sống nỗi đi làm kế toán Cửa Hàng thu mua cá xuất khẩu cho Singapore. Cửa Hàng đóng cửa lại ra đi tìm đất mưu sinh.Làm thơ gởi báo lấy tiền nhuận bút .Cuộc đời bị dập vùi biết bao lần, người ta xúm lại “đánh hội đồng “ bao lần ,tôi không hề mảy may oán hờn , không hận ai dù là những người nhẫn tâm hại tôi. Không hề than trách mà vẫn sống hồn nhiên và vẫn tha thiết yêu cuộc đời này, yêu con người dù tinh khôn hay dại khờ ; dù trung thực hay xảo trá, thủ đoạn. Và tôi đã viết bài thơ nói lên tâm trạng thật hồn nhiên của mình trước thói đời, trước những nhiểu nhương của xã hội kim tiền.



Em cứ trách- ta- tên- nhu nhược
Chịu đớn hèn để được an thân
Nhưng đừng khóc vì ta lận đận
Ba mươi năm phiêu bạt giang hồ

Ba mươi năm cuối đất cùng trời
Ta chìm nổi giữa hai lằn đạn
Thương em –thương bao mùa ly loạn
Mắt buồn chờ chim mõi cánh bay

Em cứ trách – ta- tên- khờ dại
Chẳng bon chen- chẳng biết lọc lừa
Chẳng hận thù –chẳng biết hơn thua
Hồn nhiên sống - bao dung- độ lượng

Ta vẫn nghĩ - nhân gian cõi tạm
Hà tất gì một chút hư danh
Bắt chước chi Tần Cối nịnh thần
Bày mưu hại Nhạc Phi trung liệt

Em cứ trách- ta- tên- ngờ nghệch
Trước thói đời thay trắng đổi đen
Rượu “ dỏm “ đánh đồng cùng rượu “ xịn “
Quân bất lương ngang bậc thánh hiền

Gác kiếm lâu rồi ta gác kiếm
Mặc cho giòi bọ hóa thành người
Mặc cho thiên hạ mưu cầu lợi
Ta ngồi tưng tửng uống rượu suông

Em cứ trách – ta – tên – cà chớn
Ba mươi năm bỏ biệt Sài Gòn
Nhưng đừng khóc ngày ta khuất bóng
Cho hồn thơ đau mãi khôn nguôi

Xin tạ lỗi- muôn vàn- tạ lỗi
Lần ra đi không hẹn buổi về
Ba mươi năm để em lặng lẽ
Soi bóng mình bên ngọn đèn khuya

( Ba mươi năm đời ta-đời em )


Ngoái nhìn lại mấy mươi năm dài trôi qua, con đường tôi đi có buồn vui , đau khổ và hạnh phúc. Tuổi thơ không được sung sướng như những người khácLớn lên chưa được một lần hò hẹn đã vội vàng cầm súng ra chiến trường, nổi trôi theo vận nước . Ra đi không biết hận thù là gì, tâm hồn mang đầy yêu thương .Lúc đó, tôi rất thích bản nhạc “ Bà mẹ phù sa” của Phạm Duy qua tiếng hát của ca sĩ Hoàng Oanh .Nội dung bài hát kể về một bà mẹ phù sa ở giữa vùng xôi đậu , lúc Quốc Gia , lúc Giải Phóng Miền Nam.

“ Tôi nghe người ta kể chuyện. Nên hát bà con cô bác nghe. Xin hát bà con cô bác nghe, cô bác nghe.Mẹ người, mẹ người ở đất phù sa. Mới 50 mươi tuổi đã già như 80.
Mẹ ngồi, mẹ ngồi bấm đốt ngón tay. Xóm tuy mà tuy xóm nhỏ,đổi thay, đổi thay bao lần.
Ù là ù.u . ơ . ơ. ù.. ơ. Không ai chê Việt Nam ,dân tộc ta thiếu sức hùng. Mà người thì quanh năm ,phải ôm lấy hãi hùng.Năm mươi năm làm dân ,chưa được mấy lúc mừng.
Vậy mà mẹ không than, chỉ sống với lòng thương…”


Rồi một ngày ,có anh cán bộ Xây Dựng Nông Thôn , tên là anh Ba về thăm mẹ. Đang khi vui cười thì có tiếng súng nổ dưới vườn . Bà mẹ phù sa mới lùa anh xuống trốn dưới gầm giường .



“…Mẹ già, mẹ già ở túp lều tranh. Đói no ai biết, rách lành ai có hay. Một ngày, một ngày tháng 8 năm 62. Có anh, là anh Ba cán bộ . Về đây, về đây tuyên truyền. Hò là hò ơi..ơi.. Hò ơi..Anh thưa, anh học xong, chiến lược giữ xóm làng. Mẹ gật gù nghe anh và xin rất cám ơn. Đang khi anh cười vang, ai nổ súng dưới vườn. Mẹ vội lùa anh Ba vào trốn dưới gầm giường…”


Xong, mẹ ra đón khách. Khách của mẹ không ai khác hơn là anh Tư đi Giải Phòng Miền Nam cũng về ghé thăm mẹ .. Đang nói chuyện, mẹ trông ra đường mương thấy Quân đội VNCH tới gần . Mẹ vội lùa anh Tư cũng trốn dưới gầm giường .



“…Mẹ cười, mẹ cười trong lúc thiệt vui. Bước ra đón khách, thấy người cũng rất quen.
Mẹ mời, mẹ mời ăn miếng bánh men. Hỏi thăm là thăm sức khỏe và khen, và khen anh hiền lành. Đồ là đồ mi fa đố đồ mí fa… Anh xưng tên là Tư đi giải phóng xóm làng.
Mẹ gật gù nghe anh, và xin rất cám ơn. Trông ra trên đường mương, quân đội đã tới gần.

Tới đây là xong nửa chuyện, không biết rồi ai sẽ cứu ai . Không biết rồi ai sẽ cứu ai ?
Sẽ cứu ai ? “



Bà mẹ phù sa tiêu biểu cho bà mẹ Việt Nam hồn hậu , lúc nào cũng thương yêu con cái như biển Đông. Mẹ che chở , bảo vệ cho con cái dù là đứa con bên này hay đứa con bên kia cũng là con của mẹ. Bà mẹ Việt Nam không bao giờ vì đứa con này mà bỏ đứa con kia. Và anh Ba hay anh Tư trong cuộc chiến tranh này là những anh Ba, anh Tư người Việt Nam chất phát , hiền lành , vì hoàn cảnh lịch sử phải cầm súng đánh nhau. Đánh nhau không một chút thù hằn, không một chút oán hận . Tôi tin điều ấy, tôi khát khao điều ấy , cho nên tôi đã không ra đi trong ngày 30 tháng 4 năm 1975.


Nhưng than ôi ! Tôi cũng không biết khóc hay cười cho những gì tôi đã chọn lựa khi ngoái lại nhìn mấy mươi năm cuộc đời mình..Sắp hết đời người, nhưng tôi cứ ân hận , cứ dằn vặt khôn nguôi với bao điều đã nghĩ , bao điều đã tin , bao điều tôi khát khao , bao điều tôi đã trải qua trong cuộc sống .
Và , tôi ân hận , dằn vật khôn nguôi với một người tôi thương yêu suốt thời trai trẻ cho đến bây giờ ., gặp lại nhau hơn mấy mươi năm , tất cả đều dở dang. Hẹn kiếp sau ư ? Kiếp này không trọn vẹn cho nhau thì làm sao có kiếp sau ?




( còn nữa )

Wednesday, November 3, 2010

Hồi ký Linh Phương - kỳ 33


- Kỳ 33 -


Đôi lúc hồi tưởng con đường mình đã đi qua, có niềm vui nỗi buồn- tôi ví đời mình như một khúc phim quay chậm đầy hỉ, nộ, ái, ố.. Bao bể dâu, khóc cười cùng nhân thế khiến tôi có cái nhìn tận tường về cuộc sống, về con người và tình yêu. Trong ký ức nửa nhớ, nửa quên của mình, tôi biết còn bỏ sót nhiều chuyện hoặc nhiều điều không muốn đề cập tới.
Tôi cám ơn số phận đã ban phát cho tôi những lận đận trong cuộc sống, cũng như cuộc đời .Vì có như thế, tôi mới viết được nhiều bài thơ bằng cảm xúc thật máu thịt của chính mình. Vì có như thế, tôi mới viết được nhiều bài thơ tình ca ngợi tình yêu, và tình yêu bước ra từ nỗi đau- hạnh phúc chưa níu được.


Em về đây ngủ giấc nồng
Cho anh nhặt lại từng bông hoa buồn
Thưa em tình rất tầm thường
Như trăm đau đớn về nương náu ngày
Mỗi năm mỗi thấy thật dài
Mỗi năm mỗi thấy em hoài cách xa


( Từng bông hoa buồn )


Bài thơ được làm vào những năm đầu thập niên 70, khi cuộc chiến tranh vào thời điểm này đã trở nên khốc liệt.Bom đạn, khói lửa ,chết chóc, thương tích tật nguyền, sự tàn bạo của chiến tranh không làm cho thơ tôi mất đi tình yêu trong thi ca. Vì tình yêu là vĩnh hằng, là bản tình ca vượt lên mọi bi hài của cõi nhân gian vốn chưa bao giờ độ lượng.
Tôi thường nghĩ rằng, nếu có kiếp sau thì tôi cũng vẫn làm thơ- bởi vì thơ làm cho tình yêu con người giàu thêm lên – tâm hồn con người hoàn toàn hơn. Con người mà nghèo đi tình yêu, khuyết tật tâm hồn thì con người ấy sẽ trở nên vô cảm, độc ác vô cùng . Tôi làm thơ để thấy tôi rất hạnh phúc trong thơ, dù hạnh phúc ấy nhỏ nhoi và kết tinh bằng nỗi buồn hay niềm vui tôi đã trải qua.

Sáng ngày 07/06/2010, tôi nhận được điện thoại của một nhà sư hỏi tôi : “ Anh Linh Phương có nhớ Mộng Long , nhạc sĩ bài “ Lá thư cuối cùng “ không ? Anh từ Canada về muốn liên lạc với anh “ Tôi vô cùng ngạc nhiên, cố lục lại hồi ức của mình . Ai nhỉ ? Đành chịu . Tôi chưa thể nhớ được . Tôi trả lời :” Tôi không nhớ “. “ Cùng ở với anh, anh là người đả cứu, đã bảo vệ cho Mộng Long . Tôi cho số điện thoại của anh cho Mộng Long , để anh ấy điện thoại cho anh nhé “ . Tôi đồng ý và cúp máy. Không thể nhớ một chút gì về cái tên đó . Thôi thì , chờ vậy .
Thỉnh thoảng tôi vẫn hay nhận được những cú điện thoại của vài người không quen biết. Họ nói , họ rất ái mộbài thơ “ Ky Vật Cho Em “, mấy chục năm trôi qua nhưng không thể nào quên được ray rức, đau đớn tận cùng của những người cầm súng ra chiến trường thời đó. Đôi lúc, họ lại hát cho tôi nghe hết bản “ Kỷ Vật Cho Em “ xong mới tắt máy điện thoại. Tôi rất xúc động vì những tình cảm ấy , tưởng đã nằm im trong quá khứ xa xăm rồi. Không ngờ vẫn như mới hôm qua- hôm qua cuộc chiến tranh vẫn còn đó.

Trưa ngày 07/06/2010 Mộng Long gọi điện thoại cho tôi., nhắc lại năm 1973 khi tôi ở Phòng Chiến Tranh Chính Trị. Thì ra, là nhạc sĩ Nhật Linh. Những ân nghĩa cũ tôi không còn nhớ vì đã 37 năm rồi . Tôi chỉ nhớ lần tôi gởi hắn nhờ Ba Nghinh ở Tiểu đoàn 2 Trâu Điên TQLC giúp đỡ . Chuyện nhỏ thôi , vậy mà Nhật Linh không quên .. Nhật Linh nói bây giờ về Việt Nam mở hãng phim TS , mời tôi hôm nào về Sai Gòn ghé Nhật Linh chơi.Nhật Linh nói tôi gởi cho hắn bài thơ “Đeo nhẫn đính hôn, nhưng không bao giờ làm đám cưới…” trong tập thơ Kỷ Vật Cho Em để hắn làm gì đó, tôi cũng không để ý tìm hiểu. Nhật Linh còn hỏi tôi nhớ Tuấn Khanh không ? Tuấn Khanh đang làm ở báo TT, Tuấn Khanh nhờ tôi xin số điện thoại của anh, để hắn viết một bài về anh trên báo . Tôi đồng ý .Nhưng tôi biết rằng , những bài báo viết về tôi sẽ khó được ra mắt đọc giả . Vì trước đó , đã có 2 người ở hai tờ báo phỏng vấn tôi, cuối cùng không đăng được vì lý do nhạy cảm trong thời điểm hiện nay .Tôi nghĩ, lần này cũng chịu chung số phận như những lần trước thôi.

Nhật Linh nhắc đến phòng C.T.C.T. làm tôi bồi hồi xúc động . Nơi đây,tôi có nhiều kỷ niệm cùng nhà văn Nguyễn Đình Thiều , cùng đứa em Trần Công Thành .Nơi đây, tôi có tình yêu Thu Hồng- người con gái áo dài vàng của 37 năm về trước đã đến cùng tôi như là một định mệnh .


Cảm tạ người
Khi mặc áo vàng
Khi uống ly sữa rồi em đứng hát
Ở một chỗ nào
Ở một chỗ nào
Để đời em hạnh phúc

( Chỗ nào để đời em hạnh phúc )


Định mệnh đã cắt rời tình yêu chúng tôi và cũng chính định mệnh kéo chúng tôi người góc biển- kẻ chân mây sau mấy mươi năm thất lạc tìm lại được nhau .Ngày trước, chúng tôi yêu nhau - biểu lộ tình yêu cho nhau chỉ có hai chúng tôi mới hiểu được ngôn ngữ tình yêu riêng của mình. Đôi khi , sự lãng mạn trong tình yêu chính là những gì không nói ra bằng lời .
Giấc mộng “ người xưa gặp lại người xưa “ không còn xa vời vợi nữa.Chúng tôi đã không mất nhau với ngần ấy thời gian dài đăng đẵng hơn nửa đời người.- thì bây giờ - sau này sẽ vĩnh viễn không thể mất nhau.Trong trái tim mỗi người chúng tôi đều có hình bóng của nhau, có khoảng trời riêng màu hồng, hồng như ngày chúng tôi gặp nhau và yêu nhau của năm 1973.


( còn nữa )

Friday, October 29, 2010

Hồi ký Linh Phương - kỳ 32


-Kỳ 32 -


Có người nói trong thơ tôi luôn có điều gì đó buồn bã như tiếc nuối dĩ vãng đã trôi qua .Điều ấy không sai dù biết rằng không thể níu lại được những gì đã mất . Khi về Sài Gòn vui chơi với bè bạn, tôi rất sung sướng mà quên đi tất cả . Tôi yêu Sài Gòn nơi tôi sinh ra , lớn lên đối diện với cuộc chiến tranh khốc liệt. Tôi nhớ Sài Gòn đầy kỷ niệm của tuổi thơ, tuổi thơ của tôi lớn lên bằng dòng nước đục ngầu – bằng hơi thở con Kinh Tàu Hủ bên kia cầu Chữ Y. Giống như tuổi thơ người bạn thân tôi là Vũ Trọng Quang đã tắm dòng nước đen ngòm dưới dạ cầu Muối , đã lớn lên trong tiếng rao của những đứa trẻ bán báo ở Khu Dân Sinh . Lớn lên , con đường vào đời của tôi không được suông sẻ và có hậu như bạn . Tôi có một số phận gian nan mà ước mơ nhỏ nhoi cũng chỉ là những mơ ước không bao giờ trở thành hiện thực .

Tóc đã pha sương , gần hết cuộc đời tôi vẫn sống chẳng khác loài chùm gởi . Đôi khi cảm thấy tủi thân, đau đến tận cùng vì một lời nói vu vơ nào đó vô tình chạm vào vết thương của mình . Ở ngoài đời, nếu nhìn vào cuộc sống của tôi, ai cũng cho rằng tôi là một người hạnh phúc hay ít ra cũng được hạnh phúc. Nhưng có nhiều điều tôi không thể viết ra, cũng như có những mối tình tôi không thể viết ra, vì nó không xứng đáng để mà đem vào một phần đời của Linh Phương .Ờ ! Dẫu sao tôi cũng được hạnh phúc , đau đớn hay ngọt ngào gì cũng là hạnh phúc của mỗi một con người . Tôi còn được làm thơ trải lòng mình trong những bài thơ tình yêu. Sau cuộc bão giông, tôi trở thành một con chi chi mềm nhũn để an phận sống nốt phần đời còn lại của mình .Bởi vì , chung quanh tôi, những người thân thiết, bạn bè, người thương yêu, hồng nhan tri kỷ đều lo lắng trước chuyện xảy ra vào năm 2008 kéo dài qua 2009 của tôi.

Trong đám bạn bè thân thiết ở Sài Gòn, chỉ có mình tôi trôi giạt xuống Cà Mau rồi Kiên Giang . Nhiều lúc thèm được trở về Sài Gòn , thèm được đi lang thang những con đường ngày xưa còn đi học . Rồi lớn lên , mới biết yêu nhưng chưa lần hẹn hò hay cầm tay người con gái nào, tôi đã bước vào đời quân ngũ .Tôi ra đi, bỏ lại sau lưng con bướm phượng của tuổi học trò, bỏ lại trang lưu bút ngày xanh đầy mộng mơ thời mới lớn . Tuổi trẻ của tôi, cũng như thế hệ chúng tôi sinh ra , bên này hay bên kia chiến tuyến ,lớn lên để cầm súng. Vâng ! Không thể nào khác hơn vì một Việt Nam chiến tranh và tù đày .

Tuổi trẻ chúng tôi không có những mối tình hồn nhiên như bây giờ- hồn nhiên yêu – hồn nhiên bệnh hoạn , hồn nhiên thụ hưởng mà không đánh đổi bằng bao xương máu như thế hệ của chúng tôi .Ngày ấy , mỗi một người chúng tôi, sống thật hối hả , yêu thật hối hả và nhiều người chúng tôi đã không có tình yêu thực sự .Bởi chúng tôi không có thời gian để yêu, để hẹn hò , thề thốt .Nói như thề, không hẳn tuổi trẻ ngày ấy không có những mối tình đẹp- tuổi trẻ ngày ấy chẳng những có những mối tình đẹp, mà còn có những thiên tình sử vừa đẹp, vừa đau khổ lẫn hạnh phúc cho đến mấy chục năm sau cuộc chiến tranh- vẫn còn đó. Như câu chuyện Trung Tá N. ( binh chủng TQLC ) cùng người con gái sông Hương-cô sinh viên văn khoa xứ Huế Lan Hương. Gia đình cô là một gia đình lễ giáo., bảo thủ - cha mẹ cô chống đối chuyện cô yêu một anh chàng đi một thứ lính dữ dằn , chết nhiều hơn sống . L. Hương đã bỏ tất cả để theo N. xuôi ngược theo những nẻo đường hành quân. Sau đó, L.Hương trở về với đứa con trong bụng, gia đình đành phải chấp nhận . Năm 1972 đứa con trai đầu lòng ra đời , ngày 30 tháng 4 năm 1975 ,L.Hương xuống tàu cùng bào thai trong bụng , còn N. thì bặt tin. Ở Mỹ, một mình nuôi hai đứa con thật nhiêu khê . Tháng 7-1980 là ngày cưới của L.Hương, 3 hôm trước ngày cưới , L.Hương nhận được thư nhà từ Huế nhắn với L.Hương rằng N. còn sống và đang cải tạo ở một nơi nào đó chưa xác định được .Sau 13 năm cải tạo , N. ra tù biết tin vợ con mình đang hạnh phúc ở Mỹ .Câu chuyện còn dài, nhưng đó là một trong những thiên tình sử vừa đẹp , vừa đau khổ khôn nguôi. Tôi đã nhiều lần chảy nước mắt vì chuyện của N. khi nghĩ đến chuyện của chính tôi.

Tôi khai sinh ở Sài Gòn, lớn lên ở Sài Gòn, nên dù cho sống chết nơi nào trên quê hương của mình tôi cũng nhớ da diết nơi chôn nhau cắt rốn. Thơ tôi vì thế có nhiều bài viết về Sài Gòn, dù hiện tại hay quá khứ.


“…Tay trắng – trắng tay về với biển
Lâu lâu nhớ quá khóc một mình
Cuộc sống chẳng dung đời kẽ sĩ
Thôi đành tóc bạc tiễn tóc xanh “


Tôi rất thực sự cô đơn khi sống một nơi không phải chính của tôi. Như câu thơ tôi viết , đôi lúc nhớ Sài Gòn quá, tôi đã yếu đuối khóc một mình . Tôi càng yếu đuối hơn sau ngày tôi bị nạn, nhiều người bạn văn nghệ không còn muốn dính líu gì với tôi, vì họ sợ liên lụy , ảnh hưởng đến họ. Thậm chí, ngay cả thời điểm bây giờ cũng còn có người muốn cô lập , nếu không nói là thù hằn tôi .Tôi đã sống những tháng năm như thế, sống mà không hề mặc cảm, không hề oán hận điều gì với cuộc đời , với con người.

Viết Hồi Ký về cuộc đời mình, là tôi muốn ghi lại một chặng đường dài từ trẻ thơ cho đến ngày từ giã cõi đời này.Trong đó, có những kỷ niệm buồn vui và có cái Tôi đáng ghét của mình – tôi sợ cái Tôi đáng ghét sẽ cường điệu ,thiếu khiêm tốn hay thiếu trung thực khi nói về mình . Nhưng tôi cũng yêu chính cái Tôi của tôi . Tôi yêu vì tôi yêu cuộc đời, yêu con người – dù cuộc đời , dù con người thiện hay ác, yêu tôi hay ghét tôi. Tôi yêu và tôi nghĩ rằng một khi mình thực sự yêu cuộc đời , yêu con người thì cuộc đời , con người cũng sẽ yêu mình . Viết Hồi Ký tôi cố gắng viết hết sức trung thực, còn những gì chưa được trung thực vì một lý do tế nhị nào đó, tôi sẽ không viết, hoặc viết tránh đi để người trong cuộc không phải phiền hà vì cái quá thực của tôi .

Cũng như những mối tình đi qua trong cuộc đời hay vẫn tồn tại trong cuộc đời của tôi- tồn tại vì mối tình đó sẽ mãi mãi không bao giờ đi qua – mối tình đó là máu, là thịt xương, là hơi thở của trái tim. Mối tình tôi cùng người xưa, có nhiều điều tôi không viết bởi nguyên do là như vậy .Cuộc sống hiện tại còn nhiều mối liên hệ ràng buộc chung quanh, còn một cuộc đời riêng mà tôi và người xưa không thể tách bạch hết những gì chúng tôi đã nói cho nhau nghe , sau hơn 30 năm cách xa. Cũng có thể khi đọc Hồi Ký của tôi nói về Thu Hồng -người xưa , ,bạn sẽ thắc mắc : sao không viết hẳn một vài kỳ , mà thỉnh thoảng lại chen vô ở nhiều kỳ khác ? Thưa, Hồi Ký là viết những gì đã trôi qua của cả gần hết một đời người- nên bất chợt nhớ gì tôi viết , nên không thể chỉ có một vài kỳ là chấm dứt với người cùng tôi hơn 30 năm , đúng hơn vào thời điểm này thì đã gần 40 rồi .Hoặc nói về Dạ Hương , tuy chỉ gần 4 năm thôi , nhưng ngần ấy thời gian cũng là những kỷ niệm ngọt ngào ,đôi lúc lăn tăn gợn sóng. Dù tình yêu còn hay mất, thoáng qua hay vĩnh viễn, tôi đều muốn thả tay ra thật nhẹ nhàng như cách đã đến với người tôi thương yêu và người yêu thương tôi.

Mối tình với người xưa thật sâu nặng, thật thiêng liêng mà tôi và Thu Hồng luôn luôn giữ trong lòng bằng tất cả sự tôn trọng thương yêu. Thiêng liêng không ai có thể nhẫn tâm chạm vào đó – và có muốn chạm vào đó cũng không chạm được.Mối tình tôi và người xưa đôi lúc có những điều nhỏ nhặt trong khi yêu nhau , nhưng đã trở thành bất tử . .Ngày xưa…Thu Hồng kể :” Những tờ giấy nháp anh làm thơ anh bỏ, Công Thành ( em trai Thu Hồng ) thường nhặt về cho em. Chữ viết anh thật đẹp, những bài thơ trên giấy nháp đôi khi chỉ có vài câu thôi, vậy mà em trân trọng, em gìn giữ coi như bảo vật trong cuộc đời mình “ Những cái rất nhỏ nhặt của em như thế,lại là biểu hiện cho một tình yêu lớn của chúng tôi. Tình yêu đó, không ai chạm vào được – dù họ là ai trong cuộc đời của tôi và Thu Hồng.Có nhiều điều mà hơn 30 năm trước tôi và Thu Hồng chưa nói hay chưa kịp nói, bây giờ sẽ nói hết những gì của ngày đó cho nhau nghe để ôn lại phần đời chúng tôi đã lạc mất trong cuộc đao binh.

Từ khi mới bắt đầu làm thơ , tôi không bao giờ có tham vọng rằng tôi sẽ nổi tiếng , sẽ là người của công chúng, buồn vui vì công chúng .Nhưng tôi lại có chút may mắn , có một bài thơ nổi tiếng khi phổ thành nhạc khúc Kỷ Vật Cho Em ( ? ). Tôi dùng từ “ có chút may mắn “ chắc không có gì quá đáng .Tôi nói “ có chút may mắn “ vì không phải nổi tiếng đơn thuần vì có một bài thơ phổ nhạc . Mà là dư luận có công nhận hay không?- Đó mới là yếu tố quan trọng cho sụ nổi tiếng của một tác phẩm. Cuộc đời đã ban tặng cho tôi chút tiếng tăm , bù lại cũng ban phát cho tôi những gian truân trong cuộc sống mà tôi phải gánh chịu. Theo thi hào Nguyễn Du thì chữ “ tài “ , chữ “ mệnh “ khéo là ghét nhau . Âu đó là lẽ thường tình , trời cho ta cái này sẽ lấy mất cái khác của ta mà thôi.
( còn nữa )

Sunday, October 24, 2010

Hồi ký Linh Phương - kỳ 31 -


- Kỳ 31 -


Như tôi đã viết trong một đoạn Hồi Ký về những bóng hồng đi qua trong đời mình . Tôi là người đàn ông đa mang chữ tình, không chung thủy với người xưa. Từ ngày người xưa chìa bàn tay cho tôi nắm, nhưng tôi đã không nắm bàn tay thương yêu đó , để những đau đớn sau này cứ ray rức mãi lòng tôi .Nhưng tôi tự hào rằng ,trong tận cùng sâu thẳm trái tim, tôi không bao giờ quên người xưa , quên quá khứ xa xăm đó . Thơ tôi, nếu ai đã đọc sẽ cảm nhận được những sâu lắng thương yêu một người mà mấy chục năm qua không hề vơi đi , dù trong khoảng thời gian chúng tôi không biết được tin nhau , còn sống hay đã chềt qua cuộc biến động lớn lao của đất nước .

Trở lại thập niên 90, tôi có vài mối tình với những người con gái mới lớn, tuy chóng vánh nhưng cũng một phần nào làm trái tim tôi xanh lại để biết tôi vẫn còn một trái tim biết yêu , biết sống giữa cuộc đời này . Năm 1996, tôi có một mối tình với cô giáo trẻ tuổi đôi mươi ở một huyện giáp ranh với Thị xã ( bây giờ là Thành phố ), lúc tôi phụ trách “ Trang Viết Học Trò “ và mục “ Giài đáp thắc mắc tuổi mới lớn “ cho một tờ báo.Một mối tình chênh lệch tuổi tác như trong truyện ngắn “ Bản giao hưởng định mệnh “ tôi đã viết . Ph.T.Hương nhỏ hơn tôi 27 tuổi , những ngày đó tôi thường đến bên đây bến phà đợi em từ bên kia bến phà sang , rồi chở em đi chơi ở một tỉnh giáp với tỉnh Kiên Giang . Gần cả trăm lá thư của em gửi qua đường bưu điện cho tôi, cả trăm lá thư tình ngọt ngào thương yêu , tưởng sẽ vượt qua được trở ngại, gian truân trên con đường tình của tôi và em . Nhưng không, em đã không đủ nghị lực – bởi vì em quá trẻ khi phải đối diện với trùng trùng khó khăn trước mắt .Cuối cùng , tôi và em chia tay- em lấy chồng, nhưng không được hạnh phúc vì chồng em đã ghen với quá khứ của vợ mình .Sau này, em gửi thư cho tôi, nhưng tôi không trả lời thư em- tôi muốn em quên tôi , dù có đau khổ, nhưng sẽ qua đi- tuổi em còn trẻ dễ quên một người đàn ông như tôi.

Năm 1998 , tôi lại vướng vào một mối tình khác-có lẽ tôi là một người đa mang với tình yêu mà phần đời của tôi đã không đạt được .Phần đời thanh niên của tôi đã đánh mất khi cuộc chiến Việt Nam càng ngày càng khốc liệt trên quê hương điêu tàn . Rồi những năm tháng tù đày, khiến tôi khao khát được thương yêu bằng tình yêu của thời thanh xuân . Người con gái tên M. Hương, học lớp 12 vửa tròn 18 tuổi . M. Hương rất yêu tôi, em hãy còn bé bỏng ngây thơ- còn tôi, người đàn ông lớn tuổi hơn em rất nhiều, trài qua bao thăng trầm của cuộc sống . Gia đình M.Hương biết được đã chặn hết thư từ tôi gửi cho em . Mẹ M.Hương gửi cho tôi một lá thư , nếu tôi thương em thì hãy quên em đi, để cho em học hành . Tôi hứa với mẹ em sẽ quên em, quên mãi mãi , vì em không thể cùng tôi chung sống được . Em sẽ không chịu nỗi dư luận ở một vùng quê vì tôi và em là hai thế hệ khác nhau , chênh lệch nhau nửa đời người .Trong đoản văn “ Cánh buồm mùa thu “ qua giọng đọc của Yên Chi , tôi đã viết thay những gì em muốn nói với tôi khi em thi đậu vào trường Đai học Cần Thơ. Tôi và em chia tay nhau trong những tháng năm em ở ký túc xá .

Tôi đã sống bằng sự thương yêu và thương yêu những bóng hồng đã đến với tôi ,dù kết thúc là chia tay- đó là sự đớn đau lẫn hạnh phúc của cuộc đời ban phát cho tôi. Tôi là người đàn ông đa tình, hay đa mang chữ tình thì có một điều duy nhất -tôi vẫn mang canh cánh trong lòng mối tình sâu nặng cùng người xưa . Và những bóng hồng đi qua cuộc đời Linh Phương , chỉ là sự đi tìm lại hình bóng của Thu Hồng qua hình bóng của một người khác. Những bóng hồng như những chiếc lông ngỗng dẫn đường cho Trọng Thủy đi tìm gặp Mỵ Châu , và rồi nước mắt tình yêu của ngày ấy sẽ hóa thành ngọc biển đông .


Lông ngỗng ngày ấy Mỵ Châu trao
Trọng Thủy thầm giấu trong ngực áo
Ba mươi năm ngược xuôi tìm dấu
Thương ” sông dài cá lội bặt tăm (*)”

Hạt lệ hóa thành ngọc biển Đông
Lấp lánh mang nỗi buồn ly biệt
Không thể nào giống như truyền thuyết
An Dương Vương chém chết con mình

Trọng Thủy dang tay níu mối tình
Xa hơn nửa vòng quay trái đất
Mỵ Châu sống êm đềm hạnh phúc
Để tim chàng đau mãi khôn nguôi

Vầng trăng khuya nhỏ máu khóc đời
Mang giấc mơ theo đường lông ngỗng
Truyền thuyết vẫn còn trang để trống
Cho người sau viết chuyện tình xưa

( Truyền thuyết )


Sau những cuộc tình dang dở, tôi mệt mỏi không còn nghĩ đến tình yêu ngoài mối tình với người xưa tôi mang trong lòng . Tôi vẫn nhớ ngày tôi và Thu Hồng gặp nhau năm 1973 như là một định mệnh ,cột chặt hai trái tim thương yêu thời tuổi trẻ vào nhau. Tôi nói định mệnh là không sai, chúng tôi gặp nhau thật kỳ diệu trong một hoàn cảnh không giống như hoàn cảnh nào trong cuộc đời .Vậy mà chúng tôi yêu nhau, thuộc về nhau , dù có chia cắt hơn 30 năm . Ngày đó Thu Hồng mặc áo dài màu vàng, tóc dài – em rất đẹp . Tôi gọi em là tiểu thư vì trong gia đình em cũng đã là một tiểu thư đài các –trâm anh .Tôi gọi em là hồng nhan tri kỷ vì tôi biết , chúng tôi xa nhau bao nhiêu năm đi nữa, thì chúng tôi vẫn như chưa hề có cuộc chia ly nào hết. Trái tim mỗi người chúng tôi đều có một góc dành cho nhau đến khi xuôi tay nhắm mắt . Còn Thu Hồng gọi tôi là Phượng Hoàng, vì em biết rằng tâm hồn tôi rộng lớn, sẽ bay cao giữa bầu trời mênh mông , không chiếc lồng sắt vĩ đại nào có thể nhốt được Phượng Hoàng của em .

Tưởng trái tim tôi đã chai sạn qua những mối tình mà tôi cho rằng không đáng để được đưa vào Hồi Ký của mình . Bất ngờ , năm 2006 tôi và Dạ Hương quen nhau từ một website mà em là một trong những người trong ban điều hành .Tôi và Dạ Hương quen nhau, tôi nghĩ đến một sự trùng hợp về mẫu tự của nhân vật trong những mối tình đi qua cuộc đời tôi . Mẫu tự H., như một cái gì cứ bám chặt lấy con đường tình đầy trắc trở ,gian nan . Từ bài thơ phổ nhạc Kỷ Vật Cho Em , tôi tặng cho người con gái tên Hương –rồi những mối tình dang dở tôi viết trong Hồi Ký này, cũng như những mối tình không được viết ra – họ đều có mẫu tự H. đứng đầu .

Quen với Dạ Hương ,trái tim tôi lại bắt đầu có những nhịp đập bất thường, bắt đầu cho một tình yêu xa vời – tình yêu nửa vòng trái đất, nhưng vẫn là một tình yêu tôi trân quý. Trân quý vì Dạ Hương là người cùng tôi đi trong những ngày giông bão ập xuống đôi vai mỏng manh của một người làm thơ.Tôi và Dạ Hương yêu nhau từ những ngày tháng năm giông bão ấy .Tinh thần tôi lúc nào cũng căng như sợi dây đàn, chỉ cần chạm nhẹ là đứt. Những ngày tháng năm đen tối ,chỉ có Dạ Hương chia sẻ cùng tôi theo từng diễn biến bất lợi mà người ta áp đặt cho tôi .Dạ Hương là nguồn động lực để tôi đứng lên lúc sắp ngã quỵ bởi cái ác của con người . Dạ Hương khóc trước cái đau mà tôi hứng chịu-em đau như chính cái đau của tôi. Có người suy đoán, Dạ Hương là người yêu cũ của tôi khi còn ở Việt Nam, đến bây giờ Dạ Hương và tôi mới gặp lại .

Khi tôi chưa qua khỏi giông bão , thì má từ giã kiếp người sau những cơn hành hạ của bệnh ung thư .Kế tiếp tôi vào bệnh viện cấp cứu, phải phẫu thuật .Dạ Hương lo cho tôi vừa tinh thần lẫn vật chất, cũng như một số bạn bè ở hải ngoại đã giúp đỡ cho tôi . Trong những ngày giông bão đó, tôi đã viết tặng cho Dạ Hương bài thơ “ Trên mâm rượu nhạt “ :


Chạy trốn nỗi buồn - nỗi buồn hoá thành thiên thạch
Rơi xuống lòng anh hằng hà sa số vết thương
Này ngực gầy bao năm trời hứng chịu bão giông
Này đôi chân bảy dặm bao lần anh vấp ngã
Đôi chân ngày xưa thách thức cùng sỏi đá
Sỏi đá phải mềm cho chân cứng bước đi
Giấc mộng đời người chưa hội ngộ đã chia ly
Trên con đường tình đầy gian nan trắc trở
Hạt hạnh phúc nẩy mầm xanh rồi vụn vỡ
Để triệu triệu nơtron kết thành một trái tim đau
Trong mắt anh giờ lại ẩn hiện nỗi lo âu
Khi cơm áo chết khô trên mâm rượu nhạt

Ân tình của bạn bè tôi không thể quên .Ân tình của Dạ Hương tôi không thể quên, tôi không bao giờ quên . Và tôi coi Dạ Hương là một hồng nhan tri kỷ thứ hai của mình .Vì thế, tôi viết trong Hồi Ký trước những kỳ trước “ Trong cuộc đời Linh Phương có hai hồng nhan tri kỷ thương yêu Linh Phương , và Linh Phương thương yêu họ - đó là Thu Hồng và Dạ Hương” . Cho dù sau này , có thế nào, có ra sao đi nữa , ở một cảnh đời khắc nghiệt nào thì tôi cũng nhớ mãi mãi hai hồng nhan tri kỷ thương yêu của tôi ".

( còn nữa )