Năm 1965, trên nhiều nhật báo , tuần san đều có giới thiệu nhóm Văn Nghệ Hoa Đông Phương, nguyên văn như sau :” Văn Nghệ Hoa Đông Phương được thành lập vào đầu tháng 10-65 với trưởng ban kiểm soát : Linh Phương và Đan Phong.
Và thành phần Văn Nghệ Hoa Đông Phương như sau : Linh Phương – Mây Hoàng Hôn- Thương Triều Lan –Thương Hoài Phượng- Đan Phong – Linh Dzạ Thào- Nguyễn Kim Sính- Hồng Điệp Thủy ( Lương Minh Nhị )- Ngô Kim Huê- Phạm Thị Tài- Mạc Vy Oanh- Trang Vy Hoài – Hoài Lệ Khanh ( Trần Thị Thanh Nhàn )- Phượng Chi (Đào Thị Thanh Phụng )- Huyền Nga ( Nguyễn Thị Mỹ Ngọc )- S.3.L.A.
Văn Nghệ Hoa Đông Phương tha thiết đón nhận sự gia nhập của các bạn trẻ yêu văn nghệ . Thư về : Lâm Quang Tuyên 61. Cư Xá Chánh Hưng ( nhờ chuyển cho Đoàn Văn Nhơn ) “ . Thực ra, Văn Nghệ Hoa Đông Phương được thành lập vào năm 1964 do Lâm Quốc Trung ( nhà văn Trúc Quân ) làm trưởng nhóm và tôi làm phó nhóm . Sau đó, Lâm Quốc Trung tách ra thành lập Tinh Việt Văn Đoàn, tôi lên làm trưởng nhóm Văn Nghệ Hoa Dông Phương kể từ tháng 10/1965 .
Và thành phần Văn Nghệ Hoa Đông Phương như sau : Linh Phương – Mây Hoàng Hôn- Thương Triều Lan –Thương Hoài Phượng- Đan Phong – Linh Dzạ Thào- Nguyễn Kim Sính- Hồng Điệp Thủy ( Lương Minh Nhị )- Ngô Kim Huê- Phạm Thị Tài- Mạc Vy Oanh- Trang Vy Hoài – Hoài Lệ Khanh ( Trần Thị Thanh Nhàn )- Phượng Chi (Đào Thị Thanh Phụng )- Huyền Nga ( Nguyễn Thị Mỹ Ngọc )- S.3.L.A.
Văn Nghệ Hoa Đông Phương tha thiết đón nhận sự gia nhập của các bạn trẻ yêu văn nghệ . Thư về : Lâm Quang Tuyên 61. Cư Xá Chánh Hưng ( nhờ chuyển cho Đoàn Văn Nhơn ) “ . Thực ra, Văn Nghệ Hoa Đông Phương được thành lập vào năm 1964 do Lâm Quốc Trung ( nhà văn Trúc Quân ) làm trưởng nhóm và tôi làm phó nhóm . Sau đó, Lâm Quốc Trung tách ra thành lập Tinh Việt Văn Đoàn, tôi lên làm trưởng nhóm Văn Nghệ Hoa Dông Phương kể từ tháng 10/1965 .
Vào thời gian này, tôi hãy còn quá trẻ, nên thường viết cho những trang “ tuổi mới lớn” hay “ thiếu nhi “, song song với những bài thơ người lớn. Bài thơ người lớn đầu tiên của tôi đang trên tuần báo Đông Nam Á của Việt Nam Quốc Dân Đảng . Bài thơ tình nhưng đầy ngôn ngữ cải lương, tôi chỉ còn nhớ đôi ba câu mà lúc đọc lại vẫn buồn cười vì cái ngây ngô của tuổi mới lớn của mình tập tành làm thơ tình người lớn . Bài thơ tôi quên mất tựa , chỉ nhớ vài câu: “ Nàng ơi có biết đêm dài . Chiều nghiêng đổ lạnh ta ngồi nghe kinh. Cung son giờ vắng phi tần …”..Bài thơ mang tâm sự của một ông vua khi phải xa cách người mình yêu mến. Hồi đó tôi rất thích vua Tự Đức, ông là một ông vua rất có hiếu với mẹ là bà Từ Dũ, là một ông vua có tâm hồn đa cảm, và ông cũng là một thi sĩ . Bài thơ nổi tiếng của ông là bài “ Khóc Thị Bằng “ một phi tần của ông như sau :
" Ới thị Bằng ơi đã mất rồi!
Ới tình ới nghĩa ới duyên ôi.
Trưa hè nắng chái oanh ăn nói,
Sớm ngỏ trưa sân liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
Mãi mãi đeo hoài chứ chẳng thôi.”
Có lẽ vì yêu thích bài thơ của vua Tự Đức mà khi sáng tác bài thơ người lớn đầu tiên tôi lại hoá thân làm một đấng quân vương chăng ?
Trong nhóm văn nghệ Hoa Đông Phương Hồng Điệp Thủy ( Lương Minh Nhị ) báo đã in lầm, chính xác là “ Kim “ chứ không phải là “ Minh “.Ở đây cũng cần nói thêm về Kim Nhị, vì giữa tôi và Kim Nhị đã có một khoảnh khắc rất đẹp, đầy xúc động trong thời chiến tranh ,một khoảnh khắc mà 32 năm sau tôi mới biết, qua lời kể của những người bạn gái của tôi và Nhị . Một khoảnh khắc mà trong bài thơ “ Thời Gian “ tôi đã viết :
“Không nhìn thấy anh- mặt trời chưa khép bóng- em lẻ loi đứng khóc một mình.
Cầm trên tay một bông hoa nở giữa vòng thép gai chiến tranh – chiến tranh xô giạt đời anh rời khỏi em – rời khỏi nụ hôn buồn ướt đẫm đôi môi- đỏ rực màu hoàng hôn- xanh xao đợi chờ khoảnh khắc chia ly .
Trời ơi ! cái khoảnh khắc chia ly- ai ngờ đâu dài đăng đẳng ba mươi hai năm không một lần hội ngộ – không một lần kịp gọi tiếng nhị thương yêu… “
Đó là khoảng tháng 4 năm 1974 , Nhị chạy xe BC với hai giỏ thức ăn đến thăm tôi.
Nhưng những chiếc xe GMC đã đưa tôi đi trước đó khoảng 5 phút, Nhị đứng bơ vơ khóc giữa con đường đất đỏ bụi mù, quanh những vòng thép gai. Cho đến 32 năm sau, chúng tôi mới gặp nhau , bồi hồi nhắc lại những gì của ngày xưa . Ngày mà tuổi trẻ chúng tôi phải cầm súng lên đường ra mặt trận, để lại sau lưng cả một khoảng trời hoa mộng đầy ước mơ tuổi học trò. Sau 32 năm gặp lại, Nhị đã là một phụ nữ thành đạt trong cuộc sống phồn hoa của Sài Gòn; còn tôi vẫn với đôi bàn tay trắng. Tôi giống như một loại chùm gởi sống bám vào thân cây cho qua ngày, qua tháng, qua năm.
Tôi lẻ loi trước dòng chảy thác ghềnh xã hội, tôi không bắt kịp và chắc không bao giờ bắt kịp cái guồng máy thay đổi đó . Những khi về Sài Gòn đi chơi với bạn bè văn nghệ thân thiết, tôi cảm thấy mình lạc lõng, quê mùa giữa một thành phố ăn chơi, thay đổi từng giờ , từng ngày . Uống một chai bia, cứ nhớ thời gian ở Cà Mau bị người ta hè nhau “đánh hội đồng “ mình, không cho cái quyền được làm việc để kiếm sống , thèm đủ thứ mà chảy nước mắt.Nhiều lúc đói quá , tôi nén tiếng than trong lòng không bật ra với bất cứ ai, dù với người bạn thân là Vũ Trọng Quang, tôi hiểu nếu lẫn lộn giữa tiền và tình bạn, sẽ có một ngày cái tình bạn mấy mươi năm sẽ mất đi tính thiêng liêng của nó . Đôi khi, Vũ Trọng Quang thương bạn , nhớ thằng bạn nối khố lỡ vận gần hết cuộc đời , kêu tôi lên Sài Gòn chơi, đều đưa tiền xe đi về, ăn uống vì bạn biết tôi không có tiền.
Trong nhóm văn nghệ Hoa Đông Phương Hồng Điệp Thủy ( Lương Minh Nhị ) báo đã in lầm, chính xác là “ Kim “ chứ không phải là “ Minh “.Ở đây cũng cần nói thêm về Kim Nhị, vì giữa tôi và Kim Nhị đã có một khoảnh khắc rất đẹp, đầy xúc động trong thời chiến tranh ,một khoảnh khắc mà 32 năm sau tôi mới biết, qua lời kể của những người bạn gái của tôi và Nhị . Một khoảnh khắc mà trong bài thơ “ Thời Gian “ tôi đã viết :
“Không nhìn thấy anh- mặt trời chưa khép bóng- em lẻ loi đứng khóc một mình.
Cầm trên tay một bông hoa nở giữa vòng thép gai chiến tranh – chiến tranh xô giạt đời anh rời khỏi em – rời khỏi nụ hôn buồn ướt đẫm đôi môi- đỏ rực màu hoàng hôn- xanh xao đợi chờ khoảnh khắc chia ly .
Trời ơi ! cái khoảnh khắc chia ly- ai ngờ đâu dài đăng đẳng ba mươi hai năm không một lần hội ngộ – không một lần kịp gọi tiếng nhị thương yêu… “
Đó là khoảng tháng 4 năm 1974 , Nhị chạy xe BC với hai giỏ thức ăn đến thăm tôi.
Nhưng những chiếc xe GMC đã đưa tôi đi trước đó khoảng 5 phút, Nhị đứng bơ vơ khóc giữa con đường đất đỏ bụi mù, quanh những vòng thép gai. Cho đến 32 năm sau, chúng tôi mới gặp nhau , bồi hồi nhắc lại những gì của ngày xưa . Ngày mà tuổi trẻ chúng tôi phải cầm súng lên đường ra mặt trận, để lại sau lưng cả một khoảng trời hoa mộng đầy ước mơ tuổi học trò. Sau 32 năm gặp lại, Nhị đã là một phụ nữ thành đạt trong cuộc sống phồn hoa của Sài Gòn; còn tôi vẫn với đôi bàn tay trắng. Tôi giống như một loại chùm gởi sống bám vào thân cây cho qua ngày, qua tháng, qua năm.
Tôi lẻ loi trước dòng chảy thác ghềnh xã hội, tôi không bắt kịp và chắc không bao giờ bắt kịp cái guồng máy thay đổi đó . Những khi về Sài Gòn đi chơi với bạn bè văn nghệ thân thiết, tôi cảm thấy mình lạc lõng, quê mùa giữa một thành phố ăn chơi, thay đổi từng giờ , từng ngày . Uống một chai bia, cứ nhớ thời gian ở Cà Mau bị người ta hè nhau “đánh hội đồng “ mình, không cho cái quyền được làm việc để kiếm sống , thèm đủ thứ mà chảy nước mắt.Nhiều lúc đói quá , tôi nén tiếng than trong lòng không bật ra với bất cứ ai, dù với người bạn thân là Vũ Trọng Quang, tôi hiểu nếu lẫn lộn giữa tiền và tình bạn, sẽ có một ngày cái tình bạn mấy mươi năm sẽ mất đi tính thiêng liêng của nó . Đôi khi, Vũ Trọng Quang thương bạn , nhớ thằng bạn nối khố lỡ vận gần hết cuộc đời , kêu tôi lên Sài Gòn chơi, đều đưa tiền xe đi về, ăn uống vì bạn biết tôi không có tiền.
( còn nữa )
No comments:
Post a Comment